Bản án 59/2019/HSST ngày 27/03/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN HOÀN KIẾM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 59/2019/HSST NGÀY 27/03/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Hôm nay ngày 27 tháng 3 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm, Thành phố Hà Nội, xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự, thụ lý số 59/2019/HSST ngày 07/3/2019, Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 59/QĐ-HS ngày 14 tháng 3 năm 2019 đối với bị cáo:

NGUYỄN ANH T; sinh năm 1972 tại Hà Nội; hộ khẩu thường trú: Số 65 phố B, phường B, quận H, Thành phố Hà Nội; hiện không có nơi ở cố định; nghề nghiệp: (không); trình độ văn hóa: 8/12; con ông: Nguyễn Văn H (đã chết) và bà: Vương Thị G; vợ là Nguyễn Thu T (đã ly hôn) và có 01 con (16 tuổi).

Danh chỉ bản số: 18 lập ngày 04/12/2018 tại Công an quận H, Thành phố Hà Nội.

01 Tiền sự: Ngày 25/5/1989 Công an quận T, Thành phố Hà Nội xử phạt hành chính về hành vi “Trộm cắp tài sản của công dân”.

07 Tiền án:

1. Ngày 18/12/1992 Tòa án nhân dân quận T kết án 10 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo. Hạn thử thách 15 tháng về tội “Cướp giật tài sản của công dân” (giá trị tài sản 110.000 đồng).

2. Ngày 13/6/1995 Tòa án nhân dân quận T kết án 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản của công dân” (không xác định giá trị tài sản).

3. Ngày 17/5/1997 Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội kết án 30 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản của công dân”. (giá trị tài sản 250.000 đồng).

4. Ngày 05/4/2000 Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội kết án 40 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản của công dân”. (giá trị tài sản 700.000 đồng).

5. Ngày 19/12/2003 Tòa án nhân dân quận T kết án 36 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. (giá trị tài sản 3.003.800 đồng).

6. Ngày 25/10/2007 Tòa án nhân dân quận H kết án 07 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

7. Ngày 16/01/2015 Tòa án nhân dân quận T kết án 36 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. (giá trị tài sản 3.000.000 đồng).

Tạm giữ: 24/11/2018; tạm giam: 03/12/2018 - (Có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án như sau:

Khoảng 22h20’ ngày 23/11/2018, Tổ công tác C1.D2.PK02E - Công an Thành phố Hà Nội trong khi làm nhiệm vụ phát hiện Nguyễn Anh T đang điều khiển xe máy nhãn hiệu Honda Wave màu đen, biển số 30F2 - 2826 trên đường đê 401 - đối diện trước cửa số nhà 713 đường H, phường C, quận H, Thành phố Hà Nội có biểu hiện nghi vấn nên đã yêu cầu dừng xe để kiểm tra hành chính. Quá trình kiểm tra phát hiện và thu giữ tại túi quần bò phía trước bên phải của T có 01 bao thuốc lá nhãn hiệu Vinataba, sau bao thuốc có 01 túi nylon kích thước khoảng 1,5x2cm bên trong chứa tinh thể màu trắng. T khai nhận là ma tuý đá mua về để sử dụng. Tổ công tác đã đưa T cùng tang vật về trụ sở Công an phường C để giải quyết.

Tang vật thu giữ của Nguyễn Anh T: 01 bao thuốc lá Vinataba; 01 túi nylon màu trắng kích thước khoảng 1,5x2cm bên trong chứa tinh thể màu trắng và 01 xe máy nhãn hiệu Honda Wave màu đen, biển số 30F2 - 2826, số máy: HC12E0069855, số khung: HHC120X8Y533855.

Theo Kết luận giám định: Tinh thể màu trắng bên trong túi nylon là ma túy loại Methamphetamine, có khối lượng 0,229 gam.

Tại cơ quan điều tra, Nguyễn Anh T khai nhận: Do bản thân nghiện ma tuý nên khoảng 21h00 ngày 23/11/2018, T điều khiển xe máy Honda Wave biển số 30F2 - 2826 đến khu vực gầm cầu V gặp và mua của một người đàn ông không quen biết 01 túi nylon chứa ma tuý đá với giá 200.000 đồng, mục đích để sử dụng. Mua xong, T để túi ma tuý phía sau bao thuốc lá Vinataba rồi cất trong túi quần bò phía trước bên phải và điều khiển xe máy đi về nhà sử dụng. Khi đi đến trước số nhà 713 đường H thì bị Cảnh sát cơ động kiểm tra phát hiện bắt giữ như đã nêu trên. Chiếc xe máy T mượn của anh Trần Việt D; sinh năm: 1991; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: ½ căn hộ số 120 chung cư K80D V, quận B, Hà Nội.

Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave màu đen, biển số 30F2-2826, số máy: HC12E0069855, số khung: HHC120X8Y533855, quá trình điều tra xác định chủ sở hữu là ông Trần Văn K; sinh năm: 1958; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: ½ căn hộ số 120 chung cư K80D V, quận B, Hà Nội là bố của anh D. Xét không liên quan đến hành vi phạm tội của T. Ngày 18/02/2019 Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an quận H đã trả lại chiếc xe máy trên cho ông K, ông K đã nhận lại xe máy và không có yêu cầu gì về dân sự.

Về đối tượng bán ma túy cho T, do T khai không biết rõ căn cước nên Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an quận H không có điều kiện xác minh làm rõ để xử lý.

Tại bản cáo trạng số 40/CT-VKS ngày 25/02/2019 Viện kiểm sát nhân dân quận H truy tố Nguyễn Anh T về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo điểm o khoản 2 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận:

Tại cơ quan điều tra và tại phiên toà bị cáo Nguyễn Anh T khai do bản thân nghiện ma tuý nên khoảng 21h00 ngày 23/11/2018, T điều khiển xe máy Honda Wave biển số 30F2-2826 đến khu vực gầm cầu V mua 01 túi ma túy đá (theo kết luận giám định là Methamphetamine, có khối lượng 0,229 gam), với giá 200.000 đồng, mục đích để sử dụng. Sau khi mua được ma túy, T để túi ma tuý phía sau bao thuốc lá Vinataba rồi cất trong túi quần bò phía trước bên phải và đi xe máy đi về nhà. Khi đi đến trước số nhà 713 đường H thì T bị Công an kiểm tra phát hiện bắt giữ cùng vật chứng. Vì vậy, Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Nguyễn Anh T về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo điểm o khoản 2 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015. Về hình phạt: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm o khoản 2 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt Nguyễn Anh T với mức án từ 05 năm đến 05 năm 06 tháng tù. Vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu, tiêu huỷ toàn bộ ma tuý; 01 bao thuốc lá Vinataba.

Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, bị cáo khai báo thành khẩn. Xin Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo hưởng mức án nhẹ nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Về tố tụng: Quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận H, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận H, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về hành vi: Lời khai của bị cáo phù hợp lời khai người làm chứng, biên bản thu giữ vật chứng và các tài liệu khác có trong hồ sơ, có đủ cơ sở kết luận: Nguyễn Anh T nghiện ma túy nên khoảng 21h00 ngày 23/11/2018 T đi đến khu vực gầm cầu V mua 01 túi nylon ma túy đá (theo kết luận giám định là Methamphetamine, có khối lượng 0,229 gam), với giá 200.000 đồng, mục đích để sử dụng. Sau khi mua được ma túy, T để túi ma tuý phía sau bao thuốc lá Vinataba rồi cất trong túi quần bò phía trước bên phải và đi xe máy về nhà để sử dụng. Khi T đi đến trước số nhà 713 phố H thì bị Công an phát hiện kiểm tra bắt giữ cùng số ma túy trên.

Như vậy, hành vi của Nguyễn Anh T đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tội và hình phạt quy định tại điểm o khoản 2 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý chất ma túy của Nhà nước, gây mất trật tự an toàn xã hội. Bị cáo nghiện ma túy, đã từng vi phạm pháp luật bị kết án nhiều lần. Sau khi ra tù bị cáo không chịu tu dưỡng, rèn luyện mà tiếp tục phạm tội, do đó cần thiết phải đưa ra xét xử bị cáo với hình phạt tù.

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo khai báo thành khẩn. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Hội đồng xét xử căn cứ tính chất hành vi phạm tội của bị cáo, nhân thân của bị cáo có 07 tiền án, trong đó có 03 tiền án chưa được xóa án tích. Lần phạm tội này là Tái phạm nguy hiểm; tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; do vậy cần thiết phải áp dụng hình phạt tù cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng cải tạo, giáo dục đối với bị cáo và phòng ngừa chung.

Biện pháp tư pháp:

Tịch thu, tiêu huỷ toàn bộ ma tuý và 01 bao thuốc lá Vinataba.

Bị cáo phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: NGUYỄN ANH T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

2. Áp dụng: điểm o khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015.

3. Hình phạt:

Xử phạt: NGUYỄN ANH T 05 (năm) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 24/11/2018.

4. Biện pháp tư pháp: Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu, tiêu huỷ:

+ Một phong bì niêm phong tại các mép dán có chữ ký của Giám định viên Nguyễn Văn H, đương sự Nguyễn Anh T cán bộ Công an Nguyễn Mạnh T, Nguyễn Trọng T và có dấu đỏ giáp lai của Công an phường C bên trong có: Một túi nylon màu trắng kích thước 1,5x2cm chứa tinh thể màu trắng là ma túy loại Methamphetamine 0,229 gam (phòng kỹ thuật hình sự PC09 - Công an Thành phố Hà Nội đã trích mẫu để giám định 0,040gam, trọng lượng còn lại 0,189 gam Methamphetamine).

+ Một bao thuốc lá nhãn hiệu Vinataba.

(Tang vật hiện giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự quận H - theo Biên bản giao nhận tang vật, vật chứng ngày 06/3/2019).

5. Án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Bị cáo phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí Hình sự sơ thẩm.

6. Quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331; Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

204
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 59/2019/HSST ngày 27/03/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:59/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hoàn Kiếm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;