Bản án 59/2019/HSST ngày 22/10/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐIỆN BIÊN PHỦ, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 59/2019/HSST NGÀY 22/10/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 22 tháng 10 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 60/2019/TLST-HS ngày 17 tháng 9 năm 2019 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 59/2019/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 10 năm 2019, đối với bị cáo:

Họ và tên: Đoàn Đức D; giới tính: Nam; tên gọi khác: Không. Sinh ngày 08 tháng 02 năm 1988; tại tỉnh Điện Biên; Nơi cư trú: Tổ 23, phường H, thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên; Nghề nghiệp: không; Trình độ học vấn 12/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam. Con ông Đoàn Thanh B và con bà Lộc Thị S. Có vợ là Nguyễn Thanh Nh và có 02 con.

Tiền án: không; tiền sự: không; nhân thân: Chưa bị kết án; chưa bị xử lý vi phạm hành chính.

Bị cáo bị bắt tạm giữ tại nhà tạm giữ Công an thành phố Điện Biên Phủ từ ngày 22/4/2019 cho đến nay; có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

Chị Nguyễn Thanh Nhàn; sinh năm: 1992; Nơi cư trú: Số nhà 133, tổ 23, phường Him Lam, thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 21 giờ 30 ngày 22/4/2019, Đoàn Đức D một mình điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 27B1-753.21 đi đến khu vực tổ 04, phường Tân Thanh, thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên, nhằm mục đích đi bán ma túy để lấy lãi thì bị Công an thành phố Điện Biên Phủ phát hiện bắt quả tang và thu giữ vật chứng cùng phương tiện. Cùng ngày Công an Thành phố Điện Biên Phủ đã tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của D, đã thu giữ tại phòng ngủ của vợ chồng D 01 lọ nhựa màu đen bên trong có 08 viên hồng phiến và 02 chiếc điếu tự chế. Trong quá trình điều tra D đã khai toàn bộ số ma túy ma túy của D mà bị thu giữ là do D mua của một người đàn ông D không biết tên và địa chỉ vào ngày 20/4/2019 ở trên đường đi đến bản Hồng Lếch Cuông, xã Thanh Chăn, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên với số tiền 2.700.000đ tiền VNĐ được 60 viên hồng phiến và 01 gói ma túy đá. Mục đích D mua số ma túy trên là để sử dụng và bán lại lấy lãi.

Ngày 23/4/2019, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Điện Biên Phủ đã gửi toàn bộ vật chứng thu giữ của bị cáo đến phòng PC09 - Công an tỉnh Điện Biên để giám định.

Tại Bản kết luận giám định số: 437/GĐ-PC09 ngày 27/4/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên kết luận:

- 06 (sáu) mẫu ký hiệu Q1, Q2, Q3, Q4, Q5, K1 gửi giám định là ma túy: Loại Methamphetamine. Khối lượng Q1: 0,49 gam, Q2: 0,49 gam; Q3: 1,26 gam, Q4: 2,99 gam; Q5: 0,6 gam, K1: 0,83 gam;

- Methamphetamine nằm trong danh mục các chất ma túy, STT: 323, Mục IIC, Danh mục II, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018…” Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận giám định trên của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên.

Bn cáo trạng số: 59/CT-VKSTPĐBP ngày 16/9/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên truy tố bị cáo Đoàn Đức D về tội tàng mua bán phép chất ma túy theo điểm i khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự. Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Điện Biên Phủ vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng tại điểm i khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Đoàn Đức D với mức hình phạt từ 07 năm đến 07 năm 06 tháng tù về tội mua bán trái phép chất ma túy.

- Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

- Về vật chứng của vụ án: Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 5,45 gam Methamphetamine; 10 túi nilon; 01 đoạn ống nhựa; 01 mảnh giấy; 02 mảnh băng dính; 01 lọ nhựa hình trụ tròn; 02 chiếc điếu tự chế; 01 chiếc ví giả da.

Tch thu sung vào ngân sách Nhà nước 1/2 giá trị chiếc xe mô tô biển kiểm soát 27B1 - 753.21; trả lại cho chị Nguyễn Thanh Nhàn 1/2 giá trị chiếc xe mô tô biển kiểm soát 27B1-753.21 là tài sản chung của chị Nhàn với bị cáo D.

- Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án buộc bị cáo phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Trong quá điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến gì về quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên.

- Lời nói sau cùng của bị cáo: Thừa nhận hành vi của mình là vi phạm pháp luật và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng Xét xử nhận định như sau:

[1] Xét hành vi phạm tội của bị cáo: Lời khai của bị cáo Đoàn Đức D trong quá trình điều tra và tại phiên tòa phù hợp với nhau, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản khám xét nơi ở; Biên bản niêm phong vật chứng; Biên bản mở niêm phong, xác định khối lượng lấy mẫu giám định và niêm phong vật chứng; Biên bản mở niêm phong và giao, nhận đối tượng giám định; Kết luận giám định; Biên bản đóng gói, niêm phong và giao, nhận lại đối tượng giám định; các biên bản ghi lời khai, bản tự khai của bị cáo và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do vậy, có đủ căn cứ để xác định vào khoảng 21 giờ 30 phút, ngày 22/4/2019, bị cáo đã một mình điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 27B1-753.21 mang ma túy đi bán tại khu vực tổ 04, phường Tân Thanh, thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên. Hành vi của bị cáo đã đủ các yếu tố cấu thành tội mua bán trái phép chất ma túy được quy định tại điểm i khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Điểm i khoản 2 Điều 251 quy định:

“i) Hêrôin, côcain, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA có khối lượng từ 05 gam đến dưới 30 gam;”.

Bị cáo là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Bị cáo thực hiện hành vi do lỗi cố ý trực tiếp. Vì vậy, khẳng định Viện kiểm sát nhân dân thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên truy tố bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo Điều luật đã viện dẫn ở trên là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật, bị cáo không bị oan sai.

[2] Xét tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Xét hành vi mua bán trái phép chất ma túy với số lượng lớn để sử dụng và bán kiếm lãi của bị cáo là rất nghiêm trọng. Mặc dù biết việc mua bán, tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm, nhưng do thiếu ý thức chấp hành pháp luật; vì ham chơi, không làm chủ được bản thân nên đã mắc vào tệ nạn xã hội, để thỏa mãn nhu cầu của bản thân bị cáo cố ý mua ma túy để sử dụng và bán kiếm lãi. Hành vi phạm tội của bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, gây hậu quả xấu cho chính bản thân và gia đình bị cáo, làm ảnh hưởng đến an ninh trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn, xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, hành vi vi phạm pháp luật của bị cáo cần phải xử lý nghiêm. Đồng thời để làm bài học răn đe, giáo dục, ngăn ngừa tội phạm chung.

Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo có bố đẻ là ông Đoàn Thanh Bình được Chủ tịch nước tặng Huân chương Chiến công hạng Nhì; Huy chương Chiến sỹ vẻ vang hạng Nhất; Huy chương Chiến sỹ vẻ vang hạng Nhì; Huy chương Chiến sỹ vẻ vang hạng Ba; Huy chương Quân ký quyết thắng, nên cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Căn cứ vào tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn để cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới đủ tác dụng giáo dục, cải tạo bị cáo có ý thức chấp hành pháp luật, đồng thời đây cũng là điều kiện thuận lợi để bị cáo có thời gian cai nghiện được ma túy và trở về hòa nhập với gia đình và cộng đồng.

[3] Về tính hợp pháp của các hành vi, các quyết định tố tụng của các cá nhân và cơ quan điều tra, truy tố của thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên:

Trong quá trình điều tra, truy tố các cá nhân và cơ quan điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của các cá nhân và cơ quan điều tra, truy tố của thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên đã thực hiện đều hợp pháp.

[4] Về vật chứng vụ án: Căn cứ quy định tại điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; cần tịch thu tiêu hủy 5,45 gam Methamphetamine; 10 túi nilon; 01 đoạn ống nhựa; 01 mảnh giấy; 02 mảnh băng dính; 01 lọ nhựa; 02 chiếc điếu tự chế; 01 chiếc ví giả da.

- Đối với chiếc xe mô tô biển kiểm soát 27B1-753.21 bị cáo dùng vào việc đi mua bán trái phép chất ma túy là tài sản chung của vợ chồng phát sinh trong thời kỳ hôn nhân, vợ bị cáo không biết bị cáo sử dụng xe mô tô vào việc mua bán ma túy, do vậy cần tịch thu 1/2 giá trị chiếc xe để sung vào ngân sách Nhà nước. Trả lại cho chị Nguyễn Thanh Nhàn 1/2 giá trị chiếc xe mô tô biển kiểm soát 27B1-753.21 là tài sản chung của chị Nhàn với bị cáo D.

- Đối với 02 chiếc điện thoại di động; 01 Giấy chứng minh thư nhân dân;

01 Giấy phép lái xe và số tiền 1.830.000đ tiền VNĐ của bị cáo không liên quan đến việc phạm tội, ngày 17/8/2019 cơ quan Cảnh sát Điều tra thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên đã trả lại toàn bộ số tài sản, đồ vật trên cho chị Nguyễn Thanh Nhàn là vợ của bị cáo D. Xét thấy việc trả lại tài sản của cơ quan điều tra đúng quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử chấp nhận.

[5] Các vấn đề khác: Bị cáo Đoàn Đức D khai đã mua ma túy của một người đàn ông không biết tên và địa chỉ trên đường đi đến bản Hồng Lếch Cuông, xã Thanh Chăn, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên nên cơ quan điều tra không có đủ cơ sở đề điều tra làm rõ. Hội đồng Xét xử không đề cập việc xử lý đối với người đàn ông này.

[6] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự quy định thì người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời khai của bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy bị cáo là người nghiện ma túy, không có nghề nghiệp, không có thu nhập, không có tài sản gì có giá trị tại địa phương. Do đó, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[8] Về án phí: Căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án buộc bị cáo Đoàn Đức D phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Đoàn Đức D phạm tội mua bán trái phép chất ma túy.

2. Về hình phạt: Áp dụng điểm i khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Đoàn Đức D 07 (bẩy) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, ngày 22 tháng 4 năm 2019.

3. Về vật chứng vụ án: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; đim a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tch thu tiêu hủy 5,45 gam Methamphetamine; 10 túi nilon; 01 đoạn ống nhựa; 01 mảnh giấy; 02 mảnh băng dính; 01 lọ nhựa; 02 chiếc điếu tự chế; 01 chiếc ví giả da.

- Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước 1/2 giá trị của chiếc xe mô tô biển kiểm soát 27B1-753.21 cùng với 01 chìa khóa của xe là phương tiện bị cáo D dùng vào việc phạm tội. Trả lại cho chị Nguyễn Thanh Nhàn 1/2 giá trị chiếc xe mô tô biển kiểm soát 27B1-753.21 là tài sản chung của chị Nhàn với bị cáo D.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan CSĐT Công an thành phố và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Điện Biên phủ ngày 19/9/2019) Chấp nhận Quyết định xử lý đồ vật, tài liệu số: 46/QĐXLĐVTL ngày 16/8/2019 và biên bản về việc trả lại đồ vật, tài liệu ngày 17/8/2019 của cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên cho chị Nguyễn Thanh Nhàn.

4. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án buộc bị cáo Đoàn Đức D phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự bị cáo có quyền kháng cáo toàn bộ bản án; chị Nguyễn Thanh Nhàn có quyền kháng cáo phần bản án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, ngày 22 tháng 10 năm 2019./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

195
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 59/2019/HSST ngày 22/10/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:59/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Điện Biên Phủ - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;