Bản án 59/2019/HS-ST ngày 11/07/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUẾ PHONG, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 59/2019/HS-ST NGÀY 11/07/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 11 tháng 7 năm 2019, tại Tòa án nhân dân huyện Q, Tòa án nhân dân huyện Q, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hình sự thụ lý số 50/2019/TLST-HS ngày 05 tháng 6 năm 2019, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 59/2019/QĐXXST-HS ngày 27 tháng 6 năm 2019 đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Đình H; Tên gọi khác: Không; sinh năm 1983, tại huyện Đồng H, tỉnh Thái Nguyên.

Nơi cư trú: Tổ 16, thị trấn Trại Cau, huyện Đồng H, tỉnh Thái Nguyên; nghề nghiệp: Nguyên lao động tự do; trình độ văn hóa : Lớp 02/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Đình K; con bà: Nguyễn Thị C; Có vợ: Quế Thị Ngọc M và 03 người con; tiền án: Có 01 tiền án: Năm 2017 bị Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên xử phạt 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, bị cáo chấp hành xong hình phạt ngày 02/7/2018; nhân thân: Năm 2010 bị Tòa án nhân dân huyện Y, tỉnh Nghệ An xử phạt 09 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”; năm 2012 bị Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 05/3/2019. Có mặt.

2. Vi Văn D: Tên gọi khác: Không; sinh năm 1986, tại huyện Q, tỉnh Nghệ An.

Nơi cư trú: Bản N, xã T, huyện Q, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: Nguyên trồng trọt; trình độ văn hóa: Lớp 11/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Vi Văn L; con bà: Lương Thị H; có vợ: Lương Thị H và 01 người con; tiền án: Không; tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 05/3/2019. Có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo Vi Văn D: Ông Nguyễn Thái Quỳnh, Trợ giúp viên trợ giúp pháp lý, chi nhánh trợ giúp pháp lý số 2 thuộc trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Nghệ An. Có mặt.

- Người làm chứng: Anh Lương Văn H, sinh năm 1981; trú tại bản Long Quang, xã T, huyện Q, tỉnh Nghệ An. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 05/3/2019 Nguyễn Đình H rủ Vi Văn D đi mua ma túy về cùng nhau sử dụng. D chở H đi lên bản M, xã M, huyện Q; khi đến đầu bản M, H đưa cho D 110.000 đồng để D đi mua ma túy, còn H xuống xe đợi. D cầm tiền đi mua 01 gói Heroin với một người không quen biết, giá 110.000 đồng. Mua được ma túy D quay trở lại đón H và hai người ra về đến khối 1, thị trấn Kim Sơn, huyện Q thì bị bắt quả tang, thu giữ 01 gói chất bột màu trắng, 100.000 đồng và 01 chiếc xe máy.

Tại cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Q qua xác định trọng lượng gói chất bột màu trắng thu giữ của Nguyễn Đình H và Vi Văn D có khối lượng 0,13 gam.

Bản kết luận giám định số 428/KL-PC09(MT) ngày 11/3/2019 của phòng kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Nghệ An kết luận:

Mẫu chất bột màu trắng thu giữ của Nguyễn Đình H và Vi Văn D gửi tới giám định là Heroin và có khối lượng 0,13 gam (Không phẩy mười ba gam).

Tại phiên tòa hôm nay các bị cáo Nguyễn Đình H và Vi Văn D khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Cụ thể: Ngày 05/3/2019 Nguyễn Đình H và Vi Văn D đi mua 01 gói Heroin về đến khối 1, thị trấn Kim Sơn, huyện Q thì bị bắt quả tang. Thu 01 gói Heroin có khối lượng 0,13 gam. Mục đích các bị cáo mua ma túy về để sử dụng.

Bản cáo trạng số 56/CT-VKS-HS ngày 04/6/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Q, tỉnh Nghệ An truy tố các bị cáo Nguyễn Đình H và Vi Văn D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuýtheo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Đi với người bán ma túy cho các bị cáo do không xác minh được họ tên và địa chỉ nên không có cơ sở để điều tra xử lý; đối với Lương Văn H có hành vi cho Vi Văn D mượn xe máy, nhưng H không biết D mượn xe máy đi mua ma túy, nên hành vi không cấu thành tội phạm.

Tại phiên tòa hôm nay, đại diện viện kiểm sát nhân dân huyện Q vẫn giữ nguyên quyết định truy tố các bị cáo như bản cáo trạng đã kết luận và đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự; xử phạt:

Bị cáo Nguyễn Đình H từ 18 đến 24 tháng tù.

Đề nghị áp dụng dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự; xử phạt:

Bị cáo Vi Văn D từ 12 đến 18 tháng tù.

Đề nghị tịch thu tiêu hủy vỏ gói ma túy; tịch thu nộp ngân sách nhà nước 100.000 đồng thu của bị cáo Vi Văn D.

Người bào chữa không tranh luận về tội danh; đề nghị áp dụng các tình tiết giảm nhẹ, xử phạt bị cáo Vi Văn D từ 12 đến 15 tháng tù; miễn hình phạt bổ sung và án phí.

Các bị cáo không có ý kiến tranh luận và xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Q, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Q, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Hội đồng xét xử, kiểm sát viên thực hiện quyền công tố, thư ký phiên tòa thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Các bị cáo, người bào chữa không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung vụ án: Mặc dù không được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp phép, nhưng vào lúc 14 giờ, ngày 05/3/2019, tại khối 1, thị trấn Kim Sơn, huyện Q, tỉnh Nghệ An Nguyễn Đình H và Vi Văn D đang tàng trữ trái phép chất ma túy thì bị bắt quả tang; thu 0,13 gam Heroin. Các bị cáo tàng trữ ma túy không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy. Hành vi của các bị cáo đã xâm phạm trực tiếp đến sự độc quyền quản lý chất gây nghiện của Nhà nước. Do đó các bị cáo Nguyễn Đình H và Vi Văn D đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

[3] Xét tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, các tình tiết nhân thân, tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của từng bị cáo thấy: Hành vi phạm tội của các bị cáo không những xâm phạm trực tiếp đến sự độc quyền quản lý chất gây nghiện của Nhà nước, mà còn làm ảnh hưởng đến tính mạng, sức khỏe, nòi giống của con người, xâm phạm trật tự an toàn xã hội. Hành vi phạm tội của các bị cáo là nghiêm trọng. Đối với Nguyễn Đình H vừa là người khởi xướng, là người cung cấp tiền và cùng đi mua ma túy với Vi Văn D; bị cáo có một tiền án chưa được xóa án tích, đây là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự, nên cần xét xử với mức án cao hơn bị cáo Vi Văn D. Đối với Vi Văn D là người thực hiện hành vi phạm tội tích cực. Vì vậy cần xét xử nghiêm và cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người tốt có ích cho xã hội, răn đe và phòng ngừa tội phạm. Tuy nhiên trước phiên tòa hôm nay các bị cáo khai báo thành khẩn, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

[4] Đại diện viện kiểm sát nhân dân huyện Q đề nghị xử phạt: Bị cáo Nguyễn Đình H từ 18 đến 24 tháng tù; bị cáo Vi Văn D từ 12 đến 18 tháng tù. Người bào chữa đề nghị xử phạt bị cáo Bị cáo Vi Văn D từ 12 đến 15 tháng tù. Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát và người bào chữa là hợp lý.

[5] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật hình sự quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”, do đó các bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của các bị cáo tại phiên tòa cho thấy, các bị cáo không có việc làm ổn định, thu nhập thấp, điều kiện kinh tế khó khăn, không có tài sản đáng giá; bị cáo Vi Văn D thuộc diện hộ cận nghèo. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

[6] Về vật chứng: Đối với 0,13 gam Heroin thu giữ của Nguyễn Đình H và Vi Văn D. Cơ quan điều tra đã lấy đi giám định chất ma túy hết, còn lại vỏ gói không có giá trị nên cần tịch thu tiêu hủy. Đối với số tiền 100.000 đồng không pH tiền do phạm tội mà có nên cần trả lại cho bị cáo Vi Văn D. Đối với chiếc xe máy, cơ quan cảnh sát điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Về án phí: Các bị cáo bị kết án nên pH chịu án phí Hình sự sơ thẩm theo khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo Vi Văn D thuộc hộ cận nghèo, nên được miễn tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Nguyễn Đình H và Vi Văn D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.

Phạt Nguyễn Đình H 18 (Mười tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 05/3/2019.

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Phạt Vi Văn D 12 (Mười hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 05/3/2019.

Căn cứ vào điểm c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu huỷ vỏ gói ma túy thu giữ của Nguyễn Đình H và Vi Văn D. Trả lại cho bị cáo Vi Văn D 100.000 đồng (Một trăm nghìn đồng).

Chi tiết vật chứng được ghi cụ thể trong biên bản giao nhận ngày 31/5/2019 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Q với Chi cục thi hành án dân sự huyện Q, tỉnh Nghệ An.

Căn cứ vào Điều 135 và khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự, điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Nguyễn Đình H pH chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm. Miễn tiền án phí Hình sự sơ thẩm cho bị cáo Vi Văn D.

Các bị cáo Nguyễn Đình H và Vi Văn D có quyền kháng cáo bản án lên Toà án nhân dân tỉnh Nghệ An trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

137
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 59/2019/HS-ST ngày 11/07/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:59/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quế Phong - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;