Bản án 59/2018/HNGĐ-ST ngày 18/09/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN A, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 59/2018/HNGĐ-ST NGÀY 18/09/2018 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 18 tháng 9 năm 2018, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện A xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 92/2018/TLST-HNGĐ ngày 06 tháng 4 năm 2018 về việc: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 27/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 06 tháng 8 năm 2018 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Phạm Văn B; cư trú tại thôn Đ, xã Đ, huyện A, thành phố Hải Phòng; có mặt tại phiên toà.

- Bị đơn: Chị Cao Thị P; cư trú tại thôn Đ, xã Đ, huyện A, thành phố Hải Phòng; vắng mặt tại phiên tòa (không có lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện, tại các bản tự khai, trong quá trình tố tụng và tại phiên tòa nguyên đơn là anh Phạm Văn B trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Anh Phạm Văn B và chị Cao Thị P kết hôn với nhau do tự nguyện và làm thủ tục đăng ký kết hôn tại UBND xã Đ, huyện A, thành phố Hải Phòng vào năm 2010. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống cùng nhau tại thôn Đ, xã Đ, huyện A, thành phố Hải Phòng. Quá trình chung sống, hai bên hoà thuận, hạnh phúc đến tháng 11 năm 2013 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do vợ chồng bất đồng về quan điểm sống, tính cách không hòa hợp nên thường xuyên xảy ra va chạm cãi, chửi nhau. Mâu thuẫn đã được gia đình khuyên ngăn, hoà giải nhưng không có kết quả mà trái lại ngày càng căng thẳng, trầm trọng, không còn khả năng khắc phục. Do mâu thuẫn căng thẳng nên mặc dù vẫn sống chung cùng nhà nhưng thực tế vợ chồng đã sống ly thân với nhau từ năm 2013; hiện tại không ai quan tâm và trách nhiệm đến nhau. Nay tình cảm vợ chồng không còn nên anh Phạm Văn B đề nghị Toà án giải quyết cho anh được ly hôn với chị Cao Thị P.

Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung Phạm Cao S – sinh ngày 22 tháng 01 năm 2011 và Phạm Trí K – sinh ngày 23 tháng 12 năm 2013. Ly hôn anh Phạm Văn B đề nghị Tòa án giao con chung Phạm Cao S cho chị P trực tiếp nuôi dưỡng, giao con chung Phạm Trí K cho anh trực tiếp nuôi dưỡng, không bên nào phải cấp dưỡng nuôi con chung cho bên nào.

Về tài sản: Vợ chồng tự phân chia, không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết về tài sản.

Đối với bị đơn chị Cao Thị P: Trong quá trình giải quyết vụ án, chị Cao Thị P đã được Toà án nhiều lần tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng để chị P đến Toà án giải quyết việc anh Phạm Văn B xin ly hôn nhưng chị Cao Thị P đều vắng mặt không có lý do nên không có quan điểm của chị Cao Thị P về việc anh Phạm Văn B xin ly hôn.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện A phát biểu ý kiến khẳng định:

- Về việc tuân theo pháp luật về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên toà, những người tiến hành tố tụng và nguyên đơn đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn vắng mặt nhiều lần không có lý do nên đã vi phạm các điều 70, 72 Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 28, các điều 227, 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 39 Bộ luật Dân sự; các điều 51 và 56 Luật Hôn nhân và gia đình, xử cho anh Phạm Văn B được ly hôn với chị Cao Thị P; về con chung, căn cứ các điều 81, 82 và 83 Luật Hôn nhân và gia đình, giao con chung Phạm Cao S – sinh ngày 22 tháng 01 năm 2011 cho chị Cao Thị P trực tiếp nuôi dưỡng, giao con chung Phạm Trí K – sinh ngày 23 tháng 12 năm 2013 cho anh Phạm Văn B nuôi dưỡng; thời hạn nuôi con chung tính từ ngày 19 tháng 9 năm 2018 đến khi mỗi con chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Về cấp dưỡng nuôi con và tài sản chung: Do đương sự không yêu cầu nên không xem xét, giải quyết. Về án phí: Anh Phạm Văn B phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

- Về việc xét xử vắng mặt của bị đơn:

 [1] Bị đơn, chị Cao Thị P đã được Toà án tống đạt các văn bản tố tụng theo đúng thủ tục tố tụng nhưng chị Cao Thị P vẫn vắng mặt tại phiên tòa không có lý do nên căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn chị Cao Thị P.

- Về quan hệ hôn nhân:

 [2] Căn cứ lời khai của các bên đương sự, các tài liệu, chứng cứ khác do nguyên đơn cung cấp và do Tòa án thu thập có trong hồ sơ vụ án đã xác định anh Phạm Văn B và chị Cao Thị P kết hôn với nhau do tự nguyện, có làm thủ tục đăng ký kết hôn tại UBND xã Đ vào năm 2010. Quá trình chung sống, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, tính cách không hợp nên thường xảy ra va chạm cãi, chửi nhau; vợ chồng đã sống ly thân, không ai quan tâm đến ai từ nhiều năm nay. Xét thấy, tình trạng hôn nhân giữa anh Phạm Văn B và chị Cao Thị P đã mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Vì vậy, căn cứ Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, xử cho anh Phạm Văn B được ly hôn với chị Cao Thị P.

- Về con chung:

 [3] Anh Phạm Văn B và chị Cao Thị P có hai con chung có 02 con chung Phạm Cao S – sinh ngày 22 tháng 01 năm 2011 và Phạm Trí K – sinh ngày 23 tháng 12 năm 2013. Ly hôn anh Phạm Văn B đề nghị Tòa án giao con chung Phạm Trí K cho anh trực tiếp nuôi dưỡng, giao con chung Phạm Cao S cho chị P trực tiếp nuôi dưỡng; chị Cao Thị P vắng mặt, không có quan điểm về việc nuôi con chung. Xét thấy việc nuôi con vừa là quyền vừa là nghĩa vụ của cha mẹ, việc giao con chung cho ai nuôi dưỡng cũng phải đảm bảo cho con chung được nuôi dạy trong điều kiện tốt nhất. Vì vậy nên giao con chung Phạm Trí K cho anh Phạm Văn B nuôi dưỡng, giao con chung Phạm Cao S cho chị Cao Thị P nuôi dưỡng là phù hợp với quy định của pháp luật và phù hợp với nguyện vọng của con chung Phạm Cao S.

 [4] Thời hạn nuôi con chung tính từ ngày 19 tháng 9 năm 2018 cho đến khi mỗi con chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

- Về cấp dưỡng nuôi con và về tài sản chung:

 [5] Do đương sự không có yêu cầu nên Toà án không xem xét, giải quyết; nếu các bên có tranh chấp, Tòa án sẽ xem xét, giải quyết bằng vụ án dân sự khác.

- Về án phí:

 [6] Anh Phạm Văn B phải nộp án phí dân sự sơ thẩm để sung vào công quỹ nhà nước.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 1 Điều 28; các điều 143, 147, 227 và 228 Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Căn cứ Điều 39 Bộ luật Dân sự;

- Căn cứ các điều 51, 56, 81, 82 và 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Căn cứ các điều 6, 7, 9 và khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội ban hành ngày 30 tháng 12 năm 2016,

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho anh Phạm Văn B được ly hôn với chị Cao Thị P.

2. Về con chung: Xử giao con chung Phạm Cao S – sinh ngày 22 tháng 01 năm 2011 cho chị Cao Thị P trực tiếp nuôi dưỡng, giao con chung Phạm Trí K – sinh ngày 23 tháng 12 năm 2013 cho anh Phạm Văn B trực tiếp nuôi dưỡng; việc cấp dưỡng nuôi con do các bên đương sự tự thỏa thuận, Tòa án không xem xét giải quyết.

Thời hạn nuôi con chung tính từ ngày 19 tháng 9 năm 2018 đến khi mỗi con chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về tài sản: Tòa án không xem xét, giải quyết. Khi các đương sự có yêu cầu sẽ xem xét, giải quyết bằng vụ án dân sự khác.

4. Về án phí: Anh Phạm Văn B phải nộp 300.000đ án phí ly hôn sơ thẩm để sung vào công quỹ nhà nước. Anh Phạm Văn B đã nộp số tiền 300.000đ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện A (theo Biên lai thu tiền số 0015068 ngày 06 tháng 4 năm 2018) nên không phải nộp nữa.

Nguyên đơn có mặt, có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Bị đơn vắng mặt, có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành án tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

258
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 59/2018/HNGĐ-ST ngày 18/09/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:59/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Lão - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 18/09/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;