Bản án 590/2018/HNGĐ-ST ngày 26/06/2018 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN TÂN BÌNH – THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 590/2018/HNGĐ-ST NGÀY 26/06/2018 VỀ LY HÔN

Ngày 26 tháng 6 năm 2018 tại Tòa án nhân dân quận Tân Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 46/2018/TLST-HNGĐ ngày 11 tháng 01 năm 2018 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 69/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 09 tháng 5 năm 2018 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Lưu Thị Thanh T, sinh năm 1986; cư trú tại: Đường A, Phường B, quận C, Thành phố M (có mặt).

- Bị đơn: Ông Vũ Ngọc K, sinh năm 1974; cư trú tại: Đường A, Phường B, quận C, Thành phố M (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đơn phương ly hôn đề ngày 26/12/2017 và trong quá trình tố tụng, nguyên đơn là bà Lưu Thị Thanh T trình bày: Bà và ông Vũ Ngọc K kết hôn vào năm 2009, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân Phường B, quận C, Thành phố M theo Giấy chứng nhận kết hôn số 131/2009, quyển số II/P2 ngày 03/9/2009. Sau khi kết hôn, hai bên chung sống tại nhà số Đường A, Phường B, quận C, Thành phố M. Bà và ông K chung sống được 03 năm thì phát sinh mâu thuẫn do ông K không có trách nhiệm với gia đình, thường xuyên uống rượu bia. Bà đã cố chịu đựng, nhiều lần khuyên nhủ ông K nhưng ông K vẫn không thay đổi. Do không thể chịu đựng được thêm nên bà và ông K đã ly thân 03 năm nay. Nay bà nhận thấy không còn tình cảm với ông K và muốn ổn định cuộc sống để lo cho con nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông K.

Về con chung: Bà T khai bà và ông K có 01 con chung là Vũ Ngọc V – sinh ngày 01/4/2010. Kể từ khi bà và ông K ly thân thì trẻ M sống với bà T. Bà T yêu cầu trực tiếp nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu ông K cấp dưỡng nuôi con

Về tài sản chung, nợ chung: Bà T khai không có.

Bị đơn, ông Vũ Ngọc K mặc dù đã được Tòa án tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án, giấy triệu tập để cung cấp lời khai, thông báo và giấy triệu tập tham gia phiên họp về kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng đều vắng mặt không có lý do và cũng không có bất cứ ý kiến gì về vụ án.

Tại phiên tòa, bà Lưu Thị Thanh T vẫn giữ nguyên ý kiến, yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà ly hôn với ông K vì vợ chồng đã ly thân, không chung sống với nhau từ hơn 03 năm nay, tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn vợ chồng không thể khắc phục. Bà T yêu cầu được nuôi dưỡng con chung là trẻ Vũ Ngọc V – sinh ngày 01/4/2010 do hiện nay trẻ V đang ở với bà, bà có công việc ổn định và thời gian để chăm sóc con. Bà T không yêu cầu ông K cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung, nợ chung bà T khai không có.

Ông Vũ Ngọc K vắng mặt tại phiên tòa lần thứ 2 không có lý do.

Đại diện viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình phát biểu:

- Việc chấp hành pháp luật của Hội đồng xét xử là đúng qui định của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Tòa án thụ lý vụ án là đúng thẩm quyền, xác định đúng tư cách của những người tham gia tố tụng, quan hệ pháp luật tranh chấp.

- Tại phiên tòa hôm nay, Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng qui định của Bộ luật tố tụng dân sự về phiên tòa sơ thẩm.

- Về nội dung: Yêu cầu của bà T là có cơ sở, phù hợp pháp luật, đề nghị chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà T, giao trẻ Vũ Ngọc V cho bà T trực tiếp nuôidưỡng, tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con cho ông K. Tài sản chung, nợ chung: Bà T khai không có. Về án phí bà T phải chịu theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào lời trình bày và tranh luận của các bên đương sự tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

Nguyên đơn – bà Lưu Thị Thanh T nộp đơn xin ly hôn với bị đơn là ông Vũ Ngọc K. Ông Vũ Ngọc K hiện đang cư trú tại Đường A, Phường B, quận C, Thành phố M, nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Tân Bình theo qui định tại Khoản 1 Điều 28, Điểm a Khoản 1 Điều 35, Điểm a Khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

Xét thấy, trong quá trình giải quyết vụ án, ông Vũ Ngọc K không đến Tòa án để giải quyết mặc dù đã được tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án và giấy triệu tập để trình bày ý kiến, thông báo tham gia các phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, thông báo kết quả phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, các quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa. Do đó, căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt ông Vũ Ngọc K.

Về quan hệ hôn nhân, Hội đồng xét xử xét thấy:

Căn cứ vào giấy chứng nhận kết hôn số 131/2009, quyển số II/P2 ngày 03/9/2009 của Ủy ban nhân dân Phường B, quận C, Thành phố M thì quan hệ hôn nhân của bà Lưu Thị Thanh T và ông Vũ Ngọc K là hợp pháp, được pháp luật công nhận và bảo vệ.

Theo bà T trình bày: Trong quá trình chung sống, ông K thường xuyên uống rượu bia, không quan tâm chăm sóc gia đình. Bà T đã nhiều lần làm đơn xin ly hôn nhưng sau đó rút đơn ly hôn để vợ chồng có cơ hội khắc phục mâu thuẫn nhưng không được khiến cho mâu thuẫn vợ chồng càng gay gắt. Cả hai đã ly thân 03 năm nay nên khó có cơ hội hàn gắn tình cảm. Xét thấy, trong quan hệ vợ chồng giữa bà T và ông K không còn sự quan tâm, chia sẻ và tôn trọng nhau, tình cảm vợ chồng không còn, hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Phía bà T kiên quyết xin ly hôn, ông K không có mặt khi Tòa án triệu tập và cũng không có bất cứ ý kiến trình bày nào đối với yêu cầu ly hôn của bà T, thể hiện ông K không có thiện chí hàn gắn tình cảm gia đình. Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã có công văn gởi Ủy ban nhân dân Phường 2, quận Tân Bình để xác minh về mâu thuẫn gia đình giữa bà T và ông K. Tuy nhiên Ủy ban nhân dân Phường 2, quận Tân Bình trả lời không có thông tin về mâu thuẫn gia đình giữa bà T và ông K. Do đó, căn cứ vào Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử xét thấy yêu cầu ly hôn của bà T là có căn cứ nên chấp nhận.

Về quan hệ con chung: Có 01 con chung là Vũ Ngọc V – sinh ngày 01/4/2010. Bà T yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cả con chung, không yêu cầu ông K cấp dưỡng nuôi con. Hội đồng xét xử xét thấy trẻ V hiện đang sống chung với bà T, đang trong độ tuổi phát triển và có nhiều thay đổi về tâm sinh lý nên cần sự chăm sóc của mẹ, sự ổn định về nơi ở, học tập và ổn định về tâm lý. Hơn nữa trẻ V cũng có nguyện vọng được ở với mẹ. Phía ông K vắng mặt trong suốt quá trình tố tụng, không có bất cứ yêu cầu nào về việc nuôi dưỡng con chung. Do vậy, căn cứ vào Điều 58, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và Gia đình, Hội đồng xét xử xét thấy yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung của bà T là có căn cứ chấp nhận. Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con cho ông K do bà T không có yêu cầu.

Về tài sản chung và nợ chung: Bà T khai không có. Ông K vắng mặt trong suốt quá trình tố tụng, không có ý kiến về tài sản chung và tài sản chung nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Về án phí dân sự sơ thẩm: Căn cứ Khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội ngày 30/12/2016, bà T phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm là 300.000 đồng, được cấn trừ vào 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí bà T đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0007558 ngày 04/01/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Tân Bình.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Khoản 1 Điều 28; Điểm a Khoản 1 Điều 35; Điểm a Khoản 1 Điều 39; Khoản 4 Điều 147; điểm b Khoản 2 Điều 227; Khoản 1 Điều 273; Khoản 1 Điều 280 Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ Điều 56, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và Gia đình;

Căn cứ khoản 5 điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội ngày 30/12/2016;

1. Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, bà Lưu Thị Thanh T:

- Về quan hệ hôn nhân: Bà Lưu Thị Thanh T được ly hôn với ông Vũ Ngọc K.

- Về quyền trực tiếp nuôi dưỡng con chung và cấp dưỡng nuôi con: Giao bà Lưu Thị Thanh T được trực tiếp nuôi dưỡng 01 con chung là Vũ Ngọc V – sinh ngày 01/4/2010. Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con cho ông Vũ Ngọc K do bà Lưu Thị Thanh T không có yêu cầu.

Khi có lý do chính đáng, mức cấp dưỡng và phương thức cấp dưỡng có thể thay đổi.

Ông Vũ Ngọc K có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, giáo dục con mà không ai được cản trở. Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, cơ quan, tổ chức theo quy định có thể thay đổi người trực tiếp nuôi con.

- Về tài sản chung và nợ chung: Bà T khai không có.

2. Án phí ly hôn sơ thẩm do bà Lưu Thị Thanh T phải nộp là 300.000 (ba trăm nghìn) đồng được cấn trừ vào 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí bà T đã nộp theo biên lai số 0007558 ngày 04/01/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Tân Bình.

3. Quyền kháng cáo:

Bà Lưu Thị Thanh T được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Ông Vũ Ngọc K được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp, Viện kiểm sát nhân dân cấp trên được quyền kháng nghị theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Trường hợp bản án được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án; tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

227
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 590/2018/HNGĐ-ST ngày 26/06/2018 về ly hôn

Số hiệu:590/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Tân Bình - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/06/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: [email protected]
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;