TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI
BẢN ÁN 588/2020/HS-ST NGÀY 04/11/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Trong ngày 04 tháng 11 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 577/2020/TLST - HS ngày 12 tháng 10 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 594/2020/QĐXXST-HS ngày 20 tháng 10 năm 2020 đối với bị cáo:
Họ và tên: Nguyễn Hữu T Sinh năm 1991, tại Đồng Nai.
Nơi cư trú: 132/5, khu phố 1, phường A, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh;Tôn giáo: Phật Giáo.
Nghề nghiệp: Lao động tự do;Trình độ học vấn: Lớp 10/12. Họ tên cha: Nguyễn Hữu T, sinh năm 1966.
Họ tên mẹ: Hồng Thị H, sinh năm 1965.
Gia đình có 03 anh em, bị cáo là con thứ hai. Bị can chưa có vợ, con.
Tiền án, tiền sự: Không.
Nhân thân: Ngày 05/7/2013, bị Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa xử phạt 02 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009. Ngày 14/01/2015, T chấp hành xong bản án.
Bị cáo bị bắt ngày 28/7/2020. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ thuộc Công an thành phố Biên Hòa.
(Bị cáo T có mặt tại phiên tòa)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Nguyễn Hữu T là người sử dụng trái phép chất ma túy. Khoảng 11 giờ ngày 28/7/2020, T đến khu vực trường tiểu học A thuộc phường A, thành phố Biên Hòa mua của T1 (Chưa rõ lai lịch) 06 gói ma túy tổng hợp (hàng đá) với giá 1.000.000đ (Một triệu đồng) để sử dụng.
Khoảng 11 giờ 30 cùng ngày, T cất giấu 05 gói ma túy tổng hợp trong khẩu trang để vào túi quần trước bên phải T đang mặc, còn lại 01 gói ma túy tổng hợp T cầm trong lòng bàn tay phải đi bộ đến khu vực đường nội bộ thuộc khu phố 2, phường T, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai thì bị Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố Biên Hòa kiểm tra. Khi thấy lực lượng Công an, T thả 01 gói ma túy tổng hợp đang cầm trong lòng bàn tay phải xuống mặt đường ngay chỗ T đang đứng thì bị Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố Biên Hòa phát hiện, bắt quả tang.
Tại thời điểm bị bắt quả tang, T đang đứng cùng Phạm Trung C, sinh năm 1993, ngụ tại khu phố 7, phường A, thành phố Biên Hòa. Kết quả điều tra xác định C không biết việc T tàng trữ trái phép chất ma túy.
Quá trình điều tra, Nguyễn Hữu T khai nhận hành vi phạm tội như trên.
- Vật chứng thu giữ:
+ 06 gói ny lon hàn kín chứa tinh thể màu trắng đã được niêm phong có chữ ký của Nguyễn Hữu T và hình dấu của Công an phường T, thành phố Biên Hòa.
+ 01 điện thoại di động hiệu Iphone màu vàng, số IMEI: 35695706483622 và 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu trắng, số IMEI: 358052011693552 của Nguyễn Hữu T không liên quan đến việc phạm tội.
+ 3.400.000đ (Ba triệu bốn trăm nghìn đồng) của Nguyễn Hữu T không liên quan đến việc phạm tội.
- Tại Bản kết luận giám định số 1518/KLGĐ-PC09 ngày 03/8/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai, kết luận:
“Mẫu tinh thể màu trắng được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng: 2,8200gam, loại: Methamphetamine.” Tại bản cáo trạng số 565/CT-VKSBH ngày 05 tháng 10 năm 2020 Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai đã truy tố bị cáo Nguyễn Hữu T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c, khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai giữ nguyên bản cáo trạng đã truy tố. Đề nghị, Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017, tuyên bố bị cáo Nguyễn Hữu T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” xử phạt bị cáo T từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Biên Hòa, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, kiểm sát viên trong quá trình khởi tố, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về pháp luật áp dụng và xác định tội danh: Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội đúng như cáo trạng mô tả. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai người làm chứng, biên bản phạm tội quả tang và các chứng cứ, tài liệu khác có tại hồ sơ vụ án. Từ đó có đủ cơ sở để kết luận:
[3] Vào khoảng 11 giờ 30 phút ngày 28/7/2020, tại đường nội bộ thuộc khu phố 2, phường T, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, bị cáo Nguyễn Hữu T có hành vi tàng trữ trái phép 2,8200gam Methamphetamine thì bị Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố Biên Hòa kiểm tra, phát hiện, bắt quả tang.
[4] Hành vi của bị cáo Nguyễn Hữu T đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
[5] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy và là một trong những nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm cũng như các tệ nạn xã hội khác. Bị cáo thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy nên cần xử phạt bị cáo một mức án nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.
[6] Về các tình tiết tăng nặng: Không [7] Về các tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Hội đồng xét xử áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo khi lượng hình.
[8] Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 và Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015 - Tịch thu tiêu hủy toàn bộ lượng Methamphetamine sau giám định theo gói niêm phong số 1518 ngày 03/8/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng nai.
Trả lại cho bị cáo Nguyễn Hữu T 01 điện thoại di động hiệu Iphone màu vàng, số IMEI: 35695706483622; 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu trắng, số IMEI:
358052011693552 và số tiền 3.400.000đ (Ba triệu bốn trăm nghìn đồng) do không liên quan đến vụ án.
Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 03 tháng 11 năm 2020 và biên lai thu tiền số 000179 ngày 03/11/2020 của Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố Biên Hòa.
[9] Đối với đối tượng tên T1 (Chưa rõ lai lịch) có hành vi bán trái phép chất ma túy cho Nguyễn Hữu T, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa tiếp tục điều tra làm rõ, xử lý sau.
Đối với Phạm Trung C đi chung với bị cáo Nguyễn Hữu T nhưng không biết T tàng trữ trái phép chất ma túy nên không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với C.
[10] Về án phí: Áp dụng Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội buộc bị cáo T phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.
[11] Quan điểm luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hoà phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Hữu T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” Xử phạt bị cáo Nguyễn Hữu T 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 28/7/2020.
Về xử lý vật chứng:
Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 và Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015 Tịch thu tiêu hủy toàn bộ lượng Methamphetamine sau giám định theo gói niêm phong số 1518 ngày 03/8/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng nai.
Trả lại cho bị cáo Nguyễn Hữu T 01 điện thoại di động hiệu Iphone màu vàng, số IMEI: 35695706483622; 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu trắng, số IMEI: 358052011693552 và số tiền 3.400.000đ (Ba triệu bốn trăm nghìn đồng) do không liên quan đến vụ án.
Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 03 tháng 11 năm 2020 và biên lai thu tiền số 000179 ngày 03/11/2020 của Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố Biên Hòa.
Về án phí : Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.
Buộc bị cáo T phải nộp án phí hình sự sơ thẩm là 200.000đ.
Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 588/2020/HS-ST ngày 04/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 588/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 04/11/2020 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về