Bản án 58/2023/DS-PT về tranh chấp hợp đồng bảo hiểm

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 58/2023/DS-PT NGÀY 13/12/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM

Ngày 13 tháng 12 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh N xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 47/2023/TLPT-DS ngày 16 tháng 10 năm 2023 về việc “Tranh chấp hợp đồng bảo hiểm”. Do Bản án dân sự sơ thẩm số 56/2023/DS-ST ngày 12 tháng 7 năm 2023 của Tòa án nhân dân thành phố N, tỉnh N có kháng cáo của Tổng công ty cổ phần bảo hiểm B là đơn vụ án. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 55/2023/QĐXXPT- DS ngày 02 tháng 11 năm 2023 và Quyết định hoãn phiên tòa số 134/2023/QĐ- PT ngày 16 tháng 11 năm 2023, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Hoàng Ngọc V, sinh năm 1993; nơi cư trú: Thôn L, xã Đ, huyện H, tỉnh Tuyên Quang.

Ngưi đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Bà Hoàng Thị T, sinh năm 1966;

nơi cư trú: Thôn L, xã T, huyện H, tỉnh Tuyên Quang. Có mặt tại phiên tòa.

- Bị đơn: Tổng công ty cổ phần bảo hiểm B; địa chỉ trụ sở: Số 95 phố T, phường D, quận C, thành phố Hà Nội.

Ngưi đại diện theo pháp luật: Bà Hoàng Thị Y - Chức vụ: Tổng giám đốc;

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Hồ Đình Q (Theo Giấy ủy quyền số 1024/GUQ-PTI-PCKSNB ngày 01-12-2023. Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

1. Tại đơn khởi kiện, trong quá trình tố tụng và tại phiên tòa, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn là bà Hoàng Thị T trình bày: Anh Hoàng Ngọc V mua bảo hiểm thông qua hình thức đơn bảo hiểm điện tử với Công ty Bảo hiểm Bưu điện N là đơn vị trực thuộc của Tổng công ty cổ phần bảo hiểm B (gọi tắt là PTI). Gói bảo hiểm thuộc chương trình “PTI VỮNG TÂM AN +”, được thực hiện theo Quy tắc bảo hiểm số 270/QĐ-PTI-BHCN của PTI. Toàn bộ thủ tục đăng ký mua bảo hiểm, nộp phí bảo hiểm, cấp giấy chứng nhận bảo hiểm của anh V đều được thực hiện online trên hệ thống phần mềm của PTI. Ngày 12-02-2022 sau khi đóng toàn bộ Phí bảo hiểm là 790.000 đồng, anh Hoàng Ngọc V đã được PTI cấp Giấy chứng nhận bảo hiểm số 000243/GCN/040-KTTT/VTA- PLUS/2022. Giấy chứng nhận bảo hiểm, phụ lục kèm theo có các nội dung sau:

- Người mua bảo hiểm là anh Hoàng Ngọc V; người được bảo hiểm là anh Hoàng Ngọc V;

- Thời hạn bảo hiểm là 12 tháng, tính từ ngày 13-02-2022 đến ngày 13-02- 2023;

- Quyền lợi bảo hiểm: Người được bảo hiểm được hưởng quỹ trợ cấp nằm viện điều trị dịch bệnh tại các cơ sở y tế khi người được bảo hiểm nhập viện sau 03 ngày kể từ ngày bắt đầu bảo hiểm là 12.000.000 đồng. Đối với người được bảo hiểm đã tiêm chủng phòng ngừa dịch bệnh thì quỹ trợ cấp này tăng gấp đôi, tức là sẽ được hưởng 24.000.000 đồng.

Anh Hoàng Ngọc V đã được tiêm chủng phòng ngừa bệnh Covid-19 mũi 1 vào ngày 25-9-2021 và mũi 2 vào ngày 22-11-2021 tại Trạm Y tế xã Thái Hòa và Trung tâm Y tế huyện Hàm Yên, tỉnh Tuyên Quang. Đến ngày 19-02-2022 thì anh Hoàng Ngọc V được xác định bị mắc bệnh Covid-19 theo Phiếu xét nghiệm của Trung tâm Y tế huyện Hàm Yên, cùng ngày anh V phải vào điều trị tại Cơ sở Thu Dung điều trị Covid-19 thuộc Trung tâm Y tế huyện Hàm Yên - Sở Y tế tỉnh Tuyên Quang, đến ngày 28-02-2022 anh Hoàng Ngọc V được ra viện. Sau khi sự kiện bảo hiểm xảy ra, anh Hoàng Ngọc V đã làm thủ tục thông báo việc bị mắc bệnh Covid-19 và phải điều trị tại cơ sở y tế cho PTI. Các giấy yêu cầu bảo hiểm, chứng từ điều trị của anh Hoàng Ngọc V đã được chụp ảnh và gửi online trên hệ thống phần mềm của PTI vào khoảng tháng 3-2022. Ngoài việc khai báo online, anh Hoàng Ngọc V có gửi bộ hồ sơ gốc cho PTI theo đường bưu chính.

Ngày 10-6-2022, PTI có thông báo giải quyết quỹ hỗ trợ với mức chi hỗ trợ cho anh Hoàng Ngọc V là 12.000.000 đồng. Anh Hoàng Ngọc V không đồng ý với mức hỗ trợ nói trên và yêu cầu PTI phải thực hiện trả tiền bảo hiểm cho anh Hoàng Ngọc V là 24.000.000 đồng với lý do theo Giấy chứng nhận bảo hiểm số 0000234/GCN/040-KTTT/VTA-PLUS/2022 ngày 12-02-2022 và Phụ lục tại trang 2 thì trường hợp của anh Hoàng Ngọc V đã thỏa mãn tất cả các điều kiện của hợp đồng bảo hiểm. Cụ thể là anh Hoàng Ngọc V đã bị mắc bệnh Covid-19 sau hơn 03 ngày kể từ ngày bắt đầu bảo hiểm, đã được tiêm chủng phòng ngừa bệnh Covid-19, đã được điều trị tại cơ sở y tế do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thành lập; đồng thời trường hợp anh Hoàng Ngọc V không thuộc bất cứ điểm loại trừ nào theo Quy tắc bảo hiểm số 270/QĐ-PTI-BHCN và Giấy chứng nhận bảo hiểm số 0000234/GCN/040-KTTT/VTA-PLUS/2022 ngày 12-02-2022 của PTI.

Ngoài ra, theo quy định của khoản 3, mục tóm tắt nội dung bảo hiểm của Giấy chứng nhận bảo hiểm số 0000234/GCN/040-KTTT/VTA-PLUS/2022 ngày 12-02-2022 thì PTI phải trả tiền bảo hiểm trong thời hạn 10 ngày làm việc kể từ ngày nhận được bộ hồ sơ đầy đủ và hợp lệ. PTI đã tiếp nhận bộ hồ sơ yêu cầu bồi thường hợp lệ của anh Hoàng Ngọc V từ ngày 10-3-2022, thời hạn cuối cùng phải trả tiền bảo hiểm là ngày 24-3-2022. Do PTI không trả tiền bảo hiểm đúng thời hạn nên đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán. Vì vậy PTI phải trả tiền chậm trả đối với số tiền bảo hiểm theo quy định tại Điều 357 và Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015 với mức lãi suất 10%/năm, kể từ ngày 25-3-2022 cho đến khi thanh toán xong số tiền bảo hiểm của anh Hoàng Ngọc V.

Hiện tại, nguyên đơn yêu cầu Tòa án nhân dân thành phố N giải quyết các vấn đề sau:

- Buộc PTI phải trả tiền bảo hiểm cho anh Hoàng Ngọc V số tiền là 24.000.000 đồng;

- Buộc PTI phải trả tiền chậm trả theo quy định tại Điều 357 và Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015 với mức lãi suất 10%/năm đối với số tiền bảo hiểm chậm trả, kể từ ngày 25-3-2022 cho đến khi thanh toán xong số tiền bảo hiểm của anh Hoàng Ngọc V;

- Nguyên đơn tự nguyện rút các yêu cầu: Buộc PTI phải trả tiền phát sinh chi phí đi lại bao gồm vé xe từ nơi cư trú của nguyên đơn đến Tòa án với số tiền 330.000 đồng/lần đi, 330.000 đồng/lần về và yêu cầu đề nghị cơ quan có thẩm quyền xử phạt PTI do chậm trả tiền bồi thường.

2. Trong quá trình tham gia tố tụng, tại phiên tòa, người đại diện theo ủy quyền của bị đơn trình bày: Ngày 12-02-2022 anh Hoàng Ngọc V đã mua bảo hiểm thuộc chương trình “PTI VỮNG TÂM AN +”, được thực hiện theo Quy tắc bảo hiểm số 270/QĐ-PTI-BHCN của PTI. Thủ tục đăng ký mua bảo hiểm, nộp phí bảo hiểm, cấp giấy chứng nhận bảo hiểm cho anh Hoàng Ngọc V được thực hiện online trên hệ thống phần mềm của PTI. Ngày 12-02-2022 anh Hoàng Ngọc V đã đóng toàn bộ Phí bảo hiểm là 790.000 đồng nên anh Hoàng Ngọc V đã được cấp Giấy chứng nhận bảo hiểm số 0000234/GCN/040-KTTT/VTA-PLUS/2022. Thời hạn bảo hiểm đối với anh Hoàng Ngọc V là 12 tháng, tính từ ngày 13-02- 2022 đến ngày 13-02-2023.

Sau khi anh Hoàng Ngọc V bị mắc bệnh Covid-19 và được điều trị tại Cơ sở Thu Dung điều trị Covid-19 thuộc Trung tâm Y tế huyện Hàm Yên - Sở Y tế tỉnh Tuyên Quang, anh Hoàng Ngọc V đã làm thủ tục thông báo trên hệ thống phần mềm của PTI. Ngày 10-3-2022 PTI cũng đã nhận được bộ hồ sơ yêu cầu trả tiền bảo hiểm của khách hàng Hoàng Ngọc V, bao gồm giấy yêu cầu bảo hiểm và các chứng từ điều trị của anh Hoàng Ngọc V. PTI không yêu cầu anh Hoàng Ngọc V bổ sung thêm hồ sơ, tài liệu gì khác.

Anh Hoàng Ngọc V mắc bệnh Covid-19 là thuộc sự kiện bảo hiểm quy định trong chương trình bảo hiểm “PTI VỮNG TÂM AN +”. Tuy nhiên do anh Hoàng Ngọc V bị mắc bệnh Covid-19 sau khi số lượng người mắc bệnh Covid-19 rất nhiều và Chính phủ thực hiện chủ trương miễn dịch cộng đồng. Để giải quyết việc điều trị cho người mắc bệnh Covid-19, Bộ Y tế đã ban hành Quyết định số 5525/QĐ-BYT ngày 01-12-2021 và Quyết định 250/QĐ-BYT ngày 28-01-2022 để phân loại nhóm nguy cơ cần điều trị tại cơ sở y tế. Theo hướng dẫn của các văn bản trên thì anh Hoàng Ngọc V mắc bệnh Covid-19 nhưng không thuộc nhóm nguy cơ cần điều trị tại cơ sở y tế. Vì vậy, anh Hoàng Ngọc V không thuộc trường hợp được trả tiền bảo hiểm. Tuy nhiên để hỗ trợ khách hàng PTI đã thông báo đồng ý hỗ trợ cho anh Hoàng Ngọc V số tiền là 12.000.000 đồng nhưng anh Hoàng Ngọc V không đồng ý.

Hiện tại PTI yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp bảo hiểm theo quy định của pháp luật. Đồng thời, PTI không chấp nhận yêu cầu của anh Hoàng Ngọc V về việc trả tiền lãi chậm trả đối với số tiền bảo hiểm vì giữa hai bên xảy ra tranh chấp chi trả tiền bảo hiểm.

Từ nội dung trên, Bản án dân sự sơ thẩm số 56/2023/DS-ST ngày 12 tháng 7 năm 2023 của Tòa án nhân dân thành phố N, tỉnh N đã quyết định: Căn cứ Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự 2015; Căn cứ Điều 13, Điều 14, Điều 15, Điều 16, điểm c khoản 2 Điều 17, Điều 22, Điều 29 của Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000 (sửa đổi, bổ sung năm 2019); Căn cứ khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm b khoản 1 Điều 40; khoản 1 Điều 147; điểm c, g khoản 1 Điều 217; Điều 218 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Căn cứ khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XIV; Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 13 của Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11-01-2019 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.

1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của anh Hoàng Ngọc V:

1.1 Buộc Tổng công ty cổ phần bảo hiểm B phải trả cho anh Hoàng Ngọc V số tiền bảo hiểm là 24.000.000 (hai mươi tư triệu) đồng 1.2 Buộc Tổng công ty cổ phần bảo hiểm B phải trả số tiền chậm trả đối với số tiền bảo hiểm kể từ ngày 25-3-2022 đến hết ngày xét xử sơ thẩm là 3.113.000 (ba triệu một trăm mười ba nghìn) đồng.

Kể từ ngày 13-7-2023 cho đến khi thi hành án xong, Tổng công ty cổ phần bảo hiểm B còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự.

2. Đình chỉ giải quyết yêu cầu Tổng công ty cổ phần bảo hiểm B phải trả tiền phát sinh chi phí đi lại bao gồm vé xe từ nơi cư trú của nguyên đơn đến Tòa án với số tiền 330.000 đồng/lần đi và 330.000 đồng/lần về và yêu cầu đề nghị cơ quan có thẩm quyền xử phạt hành chính đối với Tổng công ty cổ phần bảo hiểm B do chậm trả tiền bồi thường.

Ngoài ra, bản án còn tuyên lãi suất chậm thi hành án, án phí và quyền kháng cáo cho các đương sự.

Ngày 19/7/2023, Tổng công ty cổ phần bảo hiểm B làm đơn kháng cáo với nội dung: Không đồng ý với toàn bộ nội dung bản án sơ thẩm và kháng cáo toàn bộ bản án, sẽ có văn bản trình bày chi tiết lý do kháng cáo nộp cho Tòa án cấp phúc thẩm. Đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xét xử đúng quy định của pháp luật bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của Công ty.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh N phát biểu quan điểm:

Về tố tụng: Những người tiến hành tố tụng và tham gia tố tụng đã chấp hành đúng những quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Về nội dung: Đề nghị HĐXX áp dụng khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự. Không chấp nhận kháng cáo của Tổng công ty cổ phần bảo hiểm B, giữ nguyên bản án sơ thẩm; Về án phí đương sự phải nộp theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Sau khi xét xử sơ thẩm, Tổng công ty cổ phần bảo hiểm B có đơn kháng cáo trong thời hạn luật định nên được chấp nhận. Tại phiên tòa, nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện; người kháng cáo giữ nguyên yêu cầu kháng cáo. Các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.

[2] Xét nội dung kháng cáo của Tổng công ty cổ phần bảo hiểm B: [2.1] Về tranh chấp bảo hiểm [2.1.1] Về việc giao kết hợp đồng: Ngày 12-02-2022 anh Hoàng Ngọc V mua bảo hiểm thông qua hình thức đơn bảo hiểm điện tử với Công ty Bảo hiểm Bưu điện N là đơn vị trực thuộc của Tổng công ty cổ phần bảo hiểm B. Sau khi anh Hoàng Ngọc V đã đóng đầy đủ phí bảo hiểm, Công ty Bảo hiểm Bưu điện N đã cấp Giấy chứng nhận bảo hiểm số 0000243/GCN/040-KTTT/VTA- PLUS/2022 ngày 12-02-2022. Giấy chứng nhận bảo hiểm và Phụ lục kèm theo trong đó có ghi các nội dung, bao gồm: Người mua bảo hiểm anh Hoàng Ngọc V, người được bảo hiểm là anh Hoàng Ngọc V; thời hạn bảo hiểm đối với anh Hoàng Ngọc V là 12 tháng, tính từ ngày 13-02-2022 đến ngày 13-02-2023; phí bảo hiểm là 790.000 đồng; quyền lợi bảo hiểm: Người được bảo hiểm được hưởng quỹ trợ cấp nằm viện điều trị dịch bệnh tại các cơ sở y tế khi người được bảo hiểm nhập viện sau 03 ngày kể từ ngày bắt đầu bảo hiểm là 12.000.000 đồng; đối với người được bảo hiểm đã tiêm chủng phòng ngừa dịch bệnh thì quỹ trợ cấp này tăng gấp đôi, tức là sẽ được hưởng 24.000.000 đồng. Ngoài ra giấy chứng nhận bảo hiểm và phụ lục kèm theo còn có các nội dung về điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm, thời hạn trả tiền bảo hiểm... Căn cứ Điều 13, Điều 14, Điều 15, Điều 22 Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000 (sửa đổi, bổ sung năm 2019) thì hợp đồng bảo hiểm giữa anh Hoàng Ngọc V và PTI là hợp pháp và có hiệu lực thực hiện; trách nhiệm bảo hiểm của PTI đối với anh Hoàng Ngọc V phát sinh từ ngày 13- 02-2022 đến ngày 13-02-2023.

[2.2] Về sự kiện bảo hiểm: Căn cứ vào Phiếu xét nghiệm ngày 19-02-2022 của Trung tâm Y tế huyện Hàm Yên - Sở Y tế tỉnh Tuyên Quang thì anh Hoàng Ngọc V bị mắc bệnh Covid-19. Như vậy, anh Hoàng Ngọc V đã bị mắc bệnh Covid-19 sau 07 ngày kể từ ngày được bắt đầu bảo hiểm là ngày 13-02-2022. Ngày 19-02-2022, anh Hoàng Ngọc V đã được đưa vào Cơ sở Thu Dung điều trị Covid-19 thuộc Trung tâm Y tế huyện Hàm Yên - Sở Y tế tỉnh Tuyên Quang, đây là cơ sở y tế hợp pháp được Sở Y tế tỉnh Tuyên Quang thành lập để điều trị cho các bệnh nhân mắc Covid-19. Các tình tiết trên là cơ sở để xác định sự kiện bảo hiểm được nêu trong Giấy chứng nhận bảo hiểm số 0000243/GCN/040- KTTT/VTA-PLUS/2022 ngày 12-02-2022 và phụ lục kèm theo đã xảy ra trong thời hạn bảo hiểm của anh Hoàng Ngọc V.

[2.3] Về nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm và số tiền chi trả: Căn cứ nhận định tại mục 2.2 về việc anh Hoàng Ngọc V bị mắc bệnh Covid-19 trong thời hạn bảo hiểm, được điều trị tại cơ sở y tế hợp pháp là sự kiện bảo hiểm được nêu trong Giấy chứng nhận bảo hiểm số 0000243/GCN/040-KTTT/VTA-PLUS/2022 ngày 12-02-2022 và phụ lục kèm theo; đồng thời việc anh Hoàng Ngọc V bị mắc bệnh Covid-19 không thuộc bất cứ điểm loại trừ nào được ghi trong Quy tắc bảo hiểm số 270/QĐ-PTI-BHCN và Giấy chứng nhận bảo hiểm số 0000243/GCN/040- KTTT/VTA-PLUS/2022 ngày 12-02-2022. Vì vậy, căn cứ Điều 16 và điểm c khoản 2 Điều 17 Luật Kinh doanh Bảo hiểm năm 2000 (sửa đổi, bổ sung năm 2019) thì PTI có nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng là anh Hoàng Ngọc V theo quy định của hợp đồng bảo hiểm. Do anh Hoàng Ngọc V bị mắc bệnh Covid-19 sau khi đã được tiêm chủng phòng ngừa dịch bệnh Covid-19, vì vậy căn cứ quy định tại phụ lục của Giấy chứng nhận bảo hiểm số 0000243/GCN/040-KTTT/VTA-PLUS/2022 ngày 12-02-2022 thì số tiền bảo hiểm PTI phải cho anh Hoàng Ngọc V là 24.000.000 đồng.

Đối với quan điểm của PTI cho rằng anh Hoàng Ngọc V mắc bệnh Covid- 19, nhưng không thuộc nhóm nguy cơ cần điều trị tại cơ sở y tế theo hướng dẫn tại Quyết định số 5525/QĐ-BYT ngày 01-12-2021 và Quyết định 250/QĐ-BYT ngày 28-01-2022 của Bộ Y tế, do đó anh Hoàng Ngọc V không thuộc trường hợp được trả tiền bảo hiểm. Hội đồng xét xử thấy rằng: Căn cứ mục 3 Quyết định số 5525/QĐ-BYT ngày 01-12-2021 của Bộ Y tế thì anh Hoàng Ngọc V thuộc loại nguy cơ trung bình, định hướng điều trị tại “bệnh viện hoặc cơ sở Thu Dung điều trị Covid-19, trong trường hợp quá tải thì có thể xem xét điều trị tại cộng đồng”; căn cứ ghi chú tại bảng 4, mục 6.1 Quyết định 250/QĐ-BYT ngày 28-01-2022 của Bộ Y tế về nguyên tắc điều trị thì “người bệnh nhiễm COVID-19 không triệu chứng hoặc mức độ nhẹ có thể điều trị tại nhà hoặc các cơ sở Thu Dung điều trị COVID-19 tuỳ theo tình hình dịch tại từng địa phương”. Trường hợp của anh Hoàng Ngọc V thực tế đã được cơ sở y tế có thẩm quyền tiếp nhận và điều trị bệnh Covid-19, như vậy là thuộc trường hợp cần thiết phải điều trị tại cơ sở y tế. Đồng thời PTI không xuất trình được tài liệu chứng cứ chứng minh nguyên đơn đã được PTI thông báo về việc phải điều trị Covid 19 theo Quyết định số 5525/QĐ-BYT ngày 01-12-2021 và Quyết định 250/QĐ-BYT ngày 28-01-2022 của Bộ Y tế. Vì vậy quan điểm của PTI cho rằng anh Hoàng Ngọc V mắc bệnh Covid-19, nhưng không thuộc nhóm nguy cơ cần điều trị tại cơ sở y tế nên không được trả tiền bảo hiểm là không có cơ sở chấp nhận.

[2.4] Về nghĩa vụ chậm trả: Căn cứ Điều 29 Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000 (sửa đổi, bổ sung năm 2019) và mục 2 chương V Quy tắc bảo hiểm số 270/QĐ-PTI-BHCN, mục 3 phần III Giấy chứng nhận bảo hiểm số 0000243/GCN/040-KTTT/VTA-PLUS/2022 ngày 12-02-2022 thì PTI có nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm trong thời hạn chậm nhất là 10 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được bộ hồ sơ đầy đủ và hợp lệ. Theo xác nhận của người đại diện PTI thì ngày 10-3-2022 PTI đã nhận được bộ hồ sơ yêu cầu trả tiền bảo hiểm của anh Hoàng Ngọc V, PTI không yêu cầu phải bổ sung thêm hồ sơ, tài liệu gì khác. Vì vậy thời hạn cuối cùng mà PTI phải trả tiền bảo hiểm là ngày 24-3-2022. Do PTI không trả tiền bảo hiểm đúng thời hạn nên đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán. Vì vậy PTI phải trả tiền chậm trả đối với số tiền bảo hiểm theo quy định tại Điều 357 và Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015 với mức lãi suất 10%/năm, kể từ ngày 25- 3-2022 cho đến khi thanh toán xong số tiền bảo hiểm cho anh Hoàng Ngọc V.

Cụ thể số tiền chậm trả tính đến hết ngày xét xử sơ thẩm là 15 tháng 17 ngày: Lãi chậm trả của 15 tháng là (24.000.000 đồng x 10%/năm/12 tháng) x 15 tháng = 3.000.000 đồng + Lãi chậm trả của 17 ngày là (24.000.000 đồng x 10%/năm/12 tháng/30 ngày) x 17 ngày = 113.000 đồng (đã làm tròn số). Tổng cộng là 3.000.000 đồng + 113.000 đồng = 3.113.000 đồng.

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 13 Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11- 01-2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi thi hành án xong, PTI còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự.

[3] Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định:

Về tố tụng: Tòa án nhân dân thành phố N xác định quan hệ pháp luật, tư cách của những người tham gia tố tụng, thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về nội dung: Tòa án nhân dân thành phố N đã áp dụng quy định của Bộ luật Dân sự, Luật kinh doanh bảo hiểm và các văn bản hướng dẫn thi hành để giải quyết đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.

Tổng công ty cổ phần bảo hiểm B không đồng ý với toàn bộ nội dung bản án sơ thẩm, kháng cáo toàn bộ bản án và sẽ có văn bản trình bày chi tiết lý do kháng cáo và sẽ nộp cho Tòa án cấp phúc thẩm. Tại cấp phúc thẩm, Tổng công ty cổ phần bảo hiểm B không xuất trình được tài liệu chứng cứ mới. Do đó, không có căn cứ chấp nhận kháng cáo. HĐXX quyết định không chấp nhận kháng cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực thi hành.

[5] Về án phí: Kháng cáo không được chấp nhận nên Tổng công ty cổ phần bảo hiểm B phải nộp án phí dân sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự 2015; Điều 13, Điều 14, Điều 15, Điều 16, điểm c khoản 2 Điều 17, Điều 22, Điều 29 của Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000 (sửa đổi, bổ sung năm 2019); khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm b khoản 1 Điều 40; khoản 1 Điều 147; điểm c, g khoản 1 Điều 217; Điều 218 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XIV; điểm a khoản 1 Điều 13 của Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11-01-2019 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.

1. Không chấp nhận kháng cáo của Tổng công ty cổ phần bảo hiểm B, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

2. Án phí dân sự phúc thẩm: Tổng công ty cổ phần bảo hiểm B phải nộp 300.000 đồng án phí dân sự phúc thẩm; đối trừ với số tiền tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp là 300.000 đồng tại Biên lai thu tiền số 0000266 ngày 24/7/2023 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố N, Tổng công ty cổ phần bảo hiểm B đã nộp đủ án phí dân sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực thi hành.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực thi hành kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

103
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 58/2023/DS-PT về tranh chấp hợp đồng bảo hiểm

Số hiệu:58/2023/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Nam Định
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 13/12/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;