Bản án 58/2021/HNGĐ-ST ngày 10/09/2021 về ly hôn 

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN K, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 58/2021/HNGĐ-ST NGÀY 10/09/2021 VỀ LY HÔN 

Ngày 10 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện K, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 128/2021/TLST-HNGĐ ngày 22 tháng 7 năm 2021 về “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 55/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 24 tháng 8 năm 2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Lê Văn C, sinh năm 1966; nơi cư trú: Thôn Đ2, xã Đ, huyện K, thành phố Hải Phòng; có mặt.

- Bị đơn: Bà Bùi Thị T, sinh năm 1970; nơi cư trú: Tổ 24, Ấp 1, Xã L 25, huyện T, tỉnh Đồng Nai; vắng mặt (có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn xin ly hôn ngày 09 tháng 7 năm 2021 và các lời khai trong hồ sơ vụ án, nguyên đơn Lê Văn C trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Ông tự nguyện đăng ký kết hôn với bà Bùi Thị T tại Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện K, thành phố Hải Phòng vào ngày 26/12/1987 (Giấy chứng nhận kết hôn số 50). Đầu năm 1990, ông bà phát sinh mâu thuẫn, do bất đồng quan điểm sống, vợ chồng không tin tưởng nhau về tình cảm cũng như xây dựng kinh tế trong gia đình, mặt khác bà T không biết đối nhân xử thế, từ đó vợ chồng thường xuyên đánh cãi chửi nhau. Mâu thuẫn đã được gia đình khuyên giải nhưng không có kết quả, bà T bỏ vào tỉnh Đồng Nai sinh sống từ cuối năm 1990 đến nay, không quan tâm đến nhau cũng như cuộc sống chung gia đình. Nay ông xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, cuộc sống chung không thể kéo dài, ông xin ly hôn bà T. Trước khi làm đơn xin ly hôn bà T; ông đã thông báo cho bà T biết, nên ngày 09/7/2021 ông và bà T đã T thỏa thuận với nhau bằng văn bản yêu cầu Tòa án nhân dân huyện K giải quyết vụ án của ông bà theo quy định pháp luật.

Về con chung: Ông bà có 01 con chung là Lê Thị T1, sinh ngày 20/7/1989, cháu đã thành niên, xây dựng gia đình ở riêng, không yêu cầu Toà án giải quyết.

Về tài sản, công nợ: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn là bà Bùi Thị T vắng mặt tại phiên tòa nhưng có bản khai ngày 02 tháng 8 năm 2021 T với ông C về thời gian, điều kiện kết hôn, thời gian chung sống hạnh phúc. Mâu thuẫn vợ chồng phát sinh từ đầu năm 1990, do bất đồng quan điểm sống, mất niềm tin trong làm ăn kinh tế, xây dựng gia đình, mặt khác ông C thường xuyên uống rượu, ham chơi bài bạc, từ đó vợ chồng thường xuyên đánh chửi nhau, nên bà đã vào Tổ 24, Ấp 1, Xã L25, huyện T, tỉnh Đồng Nai làm ăn, sinh sống từ cuối năm 1990 đến nay không quan tâm đến nhau cũng như cuộc sống chung gia đình. Khi bà được ông C thông báo về việc xin ly hôn, nên ngày 09/7/2021 bà và ông C đã T thỏa thuận với nhau bằng văn bản yêu cầu Tòa án nhân dân huyện K giải quyết vụ án của ông bà theo quy định pháp luật. Nay bà xác định tình cảm vợ chồng không còn, bà đồng ý ly hôn ông C.

Về con chung: Ông bà có 01 con chung như ông C đã trình bày, hiện nay cháu đã thành niên, xây dựng gia đình ở riêng, không yêu cầu Toà án giải quyết.

Về tài sản, công nợ: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tuy nhiên ông C, bà T đều đề nghị Tòa án không tiến hành hòa giải. Lý do mâu thuẫn giữa ông bà đã trầm trọng; mặt khác bà T ở quá xa, không sắp xếp được thời gian để tham gia phiên hòa giải. Vì vậy Tòa án quyết định đưa vụ án ra xét xử theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, ông C giữ nguyên toàn bộ nội dung yêu cầu nêu trên.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện K phát biểu ý kiến:

- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng: Từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án. Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng pháp luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án. Nguyên đơn đã chấp hành đúng quy định tại Điều 70, Điều 71, Điều 234 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn đã cơ bản chấp hành đúng quy định của pháp luật tại Điều 70, Điều 72 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Sự vắng mặt của bị đơn tại phiên tòa, nhưng đã có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn là đúng quy định tại khoản 1 Điều 227; khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về việc giải quyết vụ án: Căn cứ khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; khoản 1 Điều 227; khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; các Điều 51, 56 của Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Đề nghị Hội đồng xét xử:

- Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu của ông Lê Văn C; cho ông Lê Văn C được ly hôn bà Bùi Thị T.

- Về con chung: Ông bà có 01 con chung là Lê Thị T1, sinh ngày 20/7/1989 đã thành niên, không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.

- Về tài sản, công nợ: Đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra xem xét.

Về án phí: Ông Lê Văn C phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí mà ông C đã nộp.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

- Về tố tụng:

[1] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết: Ông Lê Văn C và bà Bùi Thị T có đăng ký kết hôn từ ngày 26/12/1987. Quá trình chung sống, ông bà xảy ra mâu thuẫn và sống ly thân; ông C cư trú tại xã Đ, huyện K, thành phố Hải Phòng; bà T cư trú tại Xã Lộ 25, huyện T, tỉnh Đồng Nai. Nay ông C gửi đơn xin ly hôn bà T tại Tòa án nhân dân huyện K; kèm theo đơn là các tài liệu, chứng cứ, trong đó có biên bản thỏa thuận giữa ông C và bà T về việc yêu cầu Tòa án nhân dân huyện K giải quyết vụ án của ông bà theo quy định của pháp luật. Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm b khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự, xác định quan hệ pháp luật là “Ly hôn”, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện K, thành phố Hải Phòng.

[2] Về việc giải quyết vắng mặt bị đơn: Bà Bùi Thị T (là bị đơn) vắng mặt tại phiên tòa, nhưng đã có đơn đề nghị xét xử vắng mặt; căn cứ khoản 1 Điều 227; khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bà T.

- Về nội dung:

[3] Về quan hệ hôn nhân: Ông C xin ly hôn bà T; căn cứ vào lời khai của đương sự và các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án cũng như chính quyền xã Đ cung cấp thì hôn nhân của ông Lê Văn C và bà Bùi Thị T là hôn nhân hợp pháp. Thời gian chung sống, mâu thuẫn vợ chồng phát sinh từ đầu năm 1990, do mất niềm tin trong quan hệ bạn bè và xây dựng kinh tế gia đình, từ đó vợ chồng thường xuyên đánh cãi chửi nhau, ông bà đã sống ly thân từ cuối năm 1990 đến nay không quan tâm đến nhau cũng như cuộc sống chung gia đình. Như vậy đủ cơ sở xác định hôn nhân của ông bà thực sự trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài. Yêu cầu xin ly hôn của ông C có cơ sở chấp nhận, nên xử cho ông C được ly hôn bà T là phù hợp với các Điều 51, 56 của Luật Hôn nhân và gia đình cũng như ý kiến của bà T tại bản khai và quan điểm của Kiểm sát viên tại phiên tòa.

[4] Về con chung: Ông bà có 01 con chung là Lê Thị T1, sinh ngày 20/7/1989 đã thành niên, xây dựng gia đình ở riêng, các đương sự không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.

[5] Về tài sản, công nợ: Các đương sự không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.

[6] Về án phí: Ông C không thuộc trường hợp được miễn án phí nên phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật không có giá ngạch.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 4 Điều 147; khoản 1 Điều 227; khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; căn cứ vào các Điều 51, 56 của Luật Hôn nhân và gia đình; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, 1. Về quan hệ hôn nhân: Ông Lê Văn C được ly hôn bà Bùi Thị T.

2. Về con chung: Ông bà có 01 con chung là Lê Thị T1, sinh ngày 20/7/1989 đã thành niên, xây dựng gia đình ở riêng, các bên đương sự không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.

3. Về tài sản, công nợ: Không yêu cầu giải quyết, nên không xem xét.

4. Về án phí: Ông Lê Văn C phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí sơ thẩm đã nộp 300.000 đồng theo biên lai số 0009372 ngày 22 tháng 7 năm 2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện K. Ông C đã chịu đủ án phí dân sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Ông Lê Văn C có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Bà Bùi Thị T có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày niêm yết bản án.

Trong trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 của Luật Thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

201
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 58/2021/HNGĐ-ST ngày 10/09/2021 về ly hôn 

Số hiệu:58/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kiến Thuỵ - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 10/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;