Bản án 58/2021/HNGĐ-ST ngày 09/09/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NA HANG, TỈNH TUYÊN QUANG

BẢN ÁN 58/2021/HNGĐ-ST NGÀY 09/09/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 09 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Na Hang, tỉnh Tuyên Quang xét xử sơ thẩm công khai vụ án ly hôn thụ lý số: 30/2021/TLST-HNGĐ ngày 20 tháng 5 năm 2021, về việc ‘‘Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 19/2021/QĐST-HNGĐ ngày 09 tháng 8 năm 2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Bàn Thị C, sinh năm 1986 Địa chỉ: Thôn BL, xã ĐV, huyện NH, tỉnh TQ. Vắng mặt có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

- Bị đơn: Anh Triệu Đức T, sinh năm 1985 Địa chỉ: Thôn BL, xã ĐV, huyện NH, tỉnh TQ. Vắng mặt, đã được triệu tập hợp lệ lần thứ 2.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện, bản tự khai, biên bản ghi lời khai, nguyên đơn chị Bàn Thị C trình bày:

Chị và anh Triệu Đức T kết hôn và chung sống với nhau từ năm 2004 trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, nhưng đến ngày 09/5/2006 mới đăng ký kết hôn tại UBND xã ĐV, huyện NH, tỉnh TQ. Quá trình chung sống 01 – 02 năm đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc, sau đó vợ chồng hường xuyên xảy ra nhiều mâu thuẫn, cãi, chửi nhau. Đến năm 2016 anh Thanh đi làm ăn xa và ít khi về nhà, mâu thuẫn vợ chồng trở nên trầm trọng. Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính cách không hợp nhau, bất đồng quan điểm sống và kinh tế, anh T đi làm xa có quan hệ với người phụ nữ khác, không quan tâm chăm sóc đến vợ con. Thực tế hai vợ chồng đã sống ly thân từ tháng 02/2020 cho đến nay không còn quan hệ gì về tình cảm cũng như kinh tế.

Tại đơn đề nghị xét xử vắng mặt chị C vẫn giữ nguyên quan điểm như đã trình bày, xác định mâu thuẫn giữa chị và anh T đã trầm trọng kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh T theo quy định của pháp luật.

Về con chung: Quá trình chung sống chị và anh Triệu Đức T có 02 con chung là cháu: Bàn Quỳnh N, sinh ngày 06/01/2005 và cháu Bàn Minh V, sinh ngày 29/7/2012. Chị C đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cả hai con chung, không đề nghị anh T cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung; nợ chung: Chị C xác định chị và anh T không có tài sản chung, nợ chung, không đề nghị Tòa án giải quyết.

Quá trình thụ lý, giải quyết vụ án, Tòa án đã báo gọi, triệu tập anh Triệu Đức T đến để giải quyết vụ án nhưng anh T đều không có mặt. Qua xác minh tại địa phương thì hiện nay anh T vẫn đăng ký hộ khẩu thường trú tại thôn BL, xã ĐV, huyện NH, tỉnh TQ. Theo cung cấp của Trưởng thôn Bản L và ông Bàn Tràn Q (bố vợ ở cùng nhà với anh Triệu Đức T) thì việc chị C và anh T kết hôn với nhau như chị C đã trình bày là đúng thực tế. Sau khi kết hôn vợ chồng chị C anh T ở cùng với gia đình ông Q tại thôn BL, xã ĐV, huyện NH, tỉnh TQ, cho đến nay vẫn chưa ra ở riêng. Quá trình chung sống giữa hai vợ chồng có xảy ra mâu thuẫn và đã sống ly thân từ đầu năm 2020 cho đến nay. Hiện nay anh T đi làm ăn xa không có mặt tại địa phương, nhưng thỉnh thoảng vẫn về nhà và liên lạc với các con và gia đình bằng điện thoại, nhưng không thông báo địa chỉ nơi ở và nơi làm việc mới cho gia đình biết, chính quyền địa phương và ông Q cũng không biết địa chỉ nơi ở, nơi làm việc của anh T ở đâu. Đại diện thôn và ông Q xác định có nhận được Thông báo về việc thụ lý vụ án và các văn bản tố tụng khác của Tòa án và đã thông báo cho anh T biết việc Tòa án đang giải quyết vụ án ly hôn giữa chị C và anh T nhưng anh T không về Tòa án để giải quyết vụ án.

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Na Hang phát biểu quan điểm:

- Về tố tụng: Thẩm phán thực hiện đúng quy định của Điều 28, 48 của Bộ luật tố tụng dân sự (BLTTDS), xác định đúng quan hệ tranh chấp, tư cách của người tham gia tố tụng, tống đạt các văn bản tố tụng cho đương sự, gửi văn bản tố tụng cho Viện kiểm sát đúng thời hạn quy định; nguyên đơn chấp hành đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, 71 của BLTTDS; Bị đơn chưa thực hiện đầy đủ nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, 72 BLTTDS như: Vắng mặt không có lý do tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, vắng mặt tại phiên tòa; Tại phiên tòa HĐXX, Thư ký thực hiện đúng trình tự, thủ tục được quy định tại chương XIV của BLTTDS.

- Về hướng giải quyết vụ án:

+ Về hôn nhân: Căn cứ các Điều 51, 56, 57 Luật Hôn nhân và gia đình, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Bàn Thị Coi xử cho chị Bàn Thị C được ly hôn với anh Triệu Đức T.

+ Về con chung: Căn cứ các Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình, giao 02 con chung là cháu Bàn Quỳnh N, sinh ngày 06/01/2005 và cháu Bàn Minh V, sinh ngày 29/7/2012 cho chị Bàn Thị C trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục. Anh Triệu Đức T không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

+ Về tài sản chung, nợ chung: Chị Bàn Thị C xác định không có, không đề nghị Tòa án giải quyết nên không xem xét.

+ Về án phí và quyền kháng cáo: Căn cứ các Điều 143, 144, 147, 271, 273 của Bộ luật tố tụng dân sự và Nghị quyết số: 326/2016/ UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc chị Bàn Thị C phải chịu án phí dân sự sơ thẩm ly hôn và các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định.

Về việc giao nộp tài liệu chứng cứ: Nguyên đơn đã giao nộp các tài liệu, chứng cứ cho Tòa án gồm: Giấy chứng nhận kết hôn (Bản chính); Giấy chứng minh nhân dân mang tên Bàn Thị C (bản phô tô); Giấy khai sinh mang tên Bàn Quỳnh N và Bàn Minh V (Bản sao); Sổ hộ khẩu (bản sao).

Quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã tiến hành lấy lời khai của nguyên đơn; tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ; tiến hành xác minh tại thôn BL, xã ĐV, huyện NH; xác minh tại Công an xã ĐV, Công an xã TN, huyện NH; xác minh đối với ông Bàn Tràn Q.

Tòa án đã thông báo cho anh Triệu Đức T và niêm yết công khai các văn bản tố tụng theo quy định nhưng anh T không đến Tòa án giải quyết, Tòa án không tiến hành hòa giải vụ án được, các đương sự chưa thống nhất được nội dung gì nên Tòa án giải quyết vụ án theo thủ tục chung.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng: Chị Bàn Thị C và anh Triệu Đức T kết hôn với nhau, có đăng ký kết hôn tại UBND xã ĐV, huyện NH, tỉnh TQ là hôn nhân hợp pháp; Chị C khởi kiện đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn với anh T và đề nghị giải quyết việc giao nuôi con chung khi ly hôn nên xác định đây là vụ án “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”; bị đơn anh Triệu Đức T có đăng ký hộ khẩu thường trú và cư trú tại xã ĐV, huyện NH, tỉnh TQ nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Na Hang, tỉnh Tuyên Quang theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Xác minh tại địa phương cho thấy, anh Triệu Đức T có hộ khẩu thường trú tại thôn BL, xã ĐV, huyện NH, tỉnh TQ. Anh T đi làm ăn xa nhưng không thông báo địa chỉ mới nên hiện tại địa phương và gia đình không rõ anh T đang ở đâu. Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã triệu tập, gia đình anh T và chính quyền địa phương đã thông báo cho anh T biết nhưng anh T vẫn không về giải quyết và cũng không thông báo địa chỉ nơi ở và nơi làm việc mới, đây được xem là trường hợp người bị kiện cố tình che giấu địa chỉ, trốn tránh nghĩa vụ nên Tòa án vẫn giải quyết vụ án theo thủ tục chung.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án nhân dân huyện Na Hang đã tiến hành xác minh thu thập chứng cứ; thực hiện các thủ tục niêm yết, tống đạt văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật, tuy nhiên bị đơn anh T vắng mặt lần thứ hai tại phiên tòa, chị C có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt. Do vậy, Tòa án nhân dân huyện Na Hang quyết định xét xử vắng mặt các đương sự theo quy định tại các Điều 227, 228 và 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về việc xem xét yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn.

[2.1] Về hôn nhân:

Căn cứ lời khai của các đương sự; kết quả xác minh, thu thập chứng cứ có cơ sở xác định: Chị Bàn Thị C và anh Triệu Đức T kết hôn với nhau, có đăng ký kết hôn tại UBND xã ĐV, huyện NH, tỉnh TQ là hôn nhân hợp pháp, đúng thực tế. Quá trình chung sống giữa hai vợ chồng có xảy ra mâu thuẫn, thực tế vợ chồng đã sống ly thân từ đầu năm 2020 cho đến nay. Chị C xác định mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh T theo quy định.

Căn cứ các tài liệu, chứng cứ đã thu thập có cơ sở xác định giữa chị C và anh T có xảy ra mâu thuẫn, hai vợ chồng đã sống ly thân nhau từ đầu năm 2020 cho đến nay là đúng thực tế. Trong suốt thời gian sống ly thân hai vợ chồng không liên lạc với nhau, không gặp nhau, không có quan hệ gì về tình cảm cũng như kinh tế, không có cách thức biện pháp gì khắc phục mâu thuẫn vợ chồng, đến nay cuộc sống chung của hai vợ chồng trên thực tế đã không tồn tại, cả hai đều đã không còn quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ lẫn nhau, không cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình nên không thể tồn tại một gia đình hạnh phúc, tiến bộ, mục đích hôn nhân không đạt được.

Hội đồng xét xử xét thấy mâu thuẫn vợ chồng giữa chị C và anh T đến thời điểm hiện nay đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện ly hôn của chị C. Căn cứ các Điều 51, 56, 57 Luật Hôn nhân và gia đình xử cho chị Bàn Thị C được ly hôn với anh Triệu Đức T.

[2.2] Về con chung: Quá trình chung sống vợ chồng chị C và anh T sinh được 02 con chung là cháu Bàn Quỳnh N, sinh ngày 06/01/2005 và cháu Bàn Minh V, sinh ngày 29/7/2012, chị C đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng cả 02 con chung, không đề nghị anh T cấp dưỡng nuôi con.

HĐXX xét thấy, theo kết quả xác minh tại thôn BL, xã ĐV, thể hiện: Chị C và anh T chưa có nhà ở riêng, hiện nay đang ở chung với bố mẹ chị C. Anh Triệu Đức T hiện nay thường xuyên vắng mặt tại địa phương, không có chỗ ở cố định, không biết hiện nay làm công việc gì, vì vậy không đảm bảo các điều kiện để nuôi dưỡng, chăm sóc con chung. Chị Bàn Thị C hiện nay thường xuyên ở nhà làm nông nghiệp, chăn nuôi, ngoài ra có đi làm thêm công nhân mức thu nhập từ 5.000.000 đồng đến 6.000.000 đồng/tháng, sau khi ly hôn chị vẫn tiếp tục ở cùng bố mẹ đẻ. Thực tế hiện nay cháu N và cháu V đang ở cùng chị tại nhà bố mẹ chị, bố mẹ chị vẫn giúp đỡ chị trong việc chăm sóc, nuôi dưỡng, đưa đón các cháu đi học, các cháu vẫn được tạo điều kiện phát triển đầy đủ về mọi mặt, chị C vẫn đảm bảo về điều kiện chỗ ở cũng như kinh tế để nuôi con chung; mặt khác ý kiến của cháu N và cháu V cũng có nguyện vọng được ở cùng chị C.

Do vậy, để đảm bảo điều kiện về mọi mặt cũng như sự phát triển toàn diện của cháu Bàn Quỳnh N và Bàn Minh V cần giao cả 02 con chung cho chị Bàn Thị C trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục là phù hợp với thực tế cũng như phù hợp với nguyện vọng của các cháu. Do chị C không đề nghị anh T cấp dưỡng nên anh T không phải cấp dưỡng nuôi con chung và có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Trường hợp có sự thay đổi về điều kiện trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục ảnh hưởng đến quyền lợi lợi về mọi mặt của con và các đương sự có yêu cầu thì Tòa án sẽ xem xét giải quyết bằng một vụ án khác theo quy định của pháp luật.

[2.3] Về tài sản chung, nợ chung: Quá trình giải quyết vụ án chị Bàn Thị C đều xác định không có, không đề nghị Tòa án giải quyết nên HĐXX không xem xét.

[3] Về án phí và quyền kháng cáo: Chị C phải chịu án phí dân sự sơ thẩm ly hôn theo quy định; các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 28, các Điều 35, 39, 143, 144, 147, 227, 228 235, 238, 266, 271, 273 của Bộ luật tố tụng dân sự;

- Các Điều 51, 56, 57, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình;

- Nghị quyết số: 326/2016/ UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Tun xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” của chị Bàn Thị C.

1. Về hôn nhân: Cho chị Bàn Thị C được ly hôn với anh Triệu Đức T. Quan hệ hôn nhân giữa chị C và anh T chấm dứt kể từ ngày bản án của Tòa án có hiệu lực pháp luật.

2. Về con chung: Giao con chung là cháu Bàn Quỳnh N, sinh ngày 06/01/2005 và cháu Bàn Minh V, sinh ngày 29/7/2012 cho chị Bàn Thị C trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục.

Anh Triệu Đức T không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

3. Về án phí: Chị Bàn Thị C phải nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm ly hôn, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị C đã nộp là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0002267, ngày 20/5/2021, tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Na Hang, chị C đã nộp đủ tiền án phí.

Anh Triệu Đức T không phải chịu án phí.

4. Về quyền kháng cáo: Các đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết công khai theo quy định.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

160
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 58/2021/HNGĐ-ST ngày 09/09/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:58/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nà Hang - Tuyên Quang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 09/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;