TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NAM ĐÀN, TỈNH NGHỆ AN
BẢN ÁN 58/2020/HS-ST NGÀY 24/12/2020 VỀ TỘI CHỨA MẠI DÂM
Ngày 24 tháng 12 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 58/2020/TLST- HS, ngày 26 tháng 11 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 60/2020/QĐXXST-HS, ngày 10 tháng 12 năm 2020 đối với bị cáo:
Họ và tên Nguyễn Thanh H, sinh ngày 10 tháng 6 năm 1974 tại xã TK, huyện TC, tỉnh Nghệ An. Nơi cư trú: Khối SN, thị trấn NĐ, huyện NĐ, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 02/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Thanh L và bà Phạm Thị M; họ và tên chồng: Nguyễn Trọng N; có 02 con, con lớn sinh năm 1996 (đã chết), con nhỏ sinh năm 2001; tiền sự: Không; tiền án: Tại Bản án số 19/2008/HSST, ngày 21/7/2008 của Tòa án nhân dân huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An xử phạt bị cáo 06 (Sáu) tháng tù về tội “Chứa mại dâm”, đã chấp hành xong hình phạt tù và án phí; tại Bản án số 22/2012/HSST, ngày 18/4/2012 của Tòa án nhân dân huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An xử phạt bị cáo 12 (Mười hai) tháng tù về tội “Chứa mại dâm”, đã chấp hành xong hình phạt tù và án phí, truy thu; tại Bản án số 18/2014/HSST, ngày 23/4/2014 của Tòa án nhân dân huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An xử phạt bị cáo 06 (Sáu) năm tù, phạt tiền 5.000.000 đồng về tội “Chứa mại dâm”, đã chấp hành xong hình phạt tù ngày 20/3/2019 và án phí, tiền phạt, truy thu; bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 12/8/2020 đến nay tại Trại tạm giam Công an tỉnh Nghệ An; có mặt.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:
+ Chị Lô Thị T, sinh năm 1985; địa chỉ: Bản NC, xã CH, huyện QC, tỉnh Nghệ An; vắng mặt.
+ Chị Lô Thị P, sinh năm 1989; địa chỉ: Bản NC, xã CH, huyện QC, tỉnh Nghệ An; vắng mặt.
+ Anh Nguyễn Thanh H, sinh năm 1990; địa chỉ: Xóm X, xã NL, huyện NĐ, tỉnh Nghệ An; vắng mặt.
+ Anh Nguyễn Khắc T, sinh năm 1990; địa chỉ: Xóm PL, xã TTL, huyện NĐ, tỉnh Nghệ An; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng đầu tháng 8/2020, Lô Thị T và Lô Thị P đến nhà gặp Nguyễn Thanh H tại khối SN, thị trấn NĐ, huyện NĐ, tỉnh Nghệ An và nói: “Chị cho em làm ít bựa rồi em kiếm tiền em về” (ý là ở lại nhà của Nguyễn Thanh H để bán dâm kiếm tiền và H sẽ nhận được một phần từ số tiền bán dâm) nên Nguyễn Thanh H đồng ý. Số tiền bán dâm mỗi lần là 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng), Nguyễn Thanh H sẽ lấy 100.000 đồng (một trăm nghìn đồng). Người bán dâm nhận tiền trực tiếp từ những người mua dâm, sau đó người bán dâm và Nguyễn Thanh H mới chia nhau. Khoảng 21 giờ ngày 11/8/2020, Nguyễn Khắc T đến gặp Nguyễn Thanh H (tại nhà riêng của H) để hỏi mua dâm thì được chỉ xuống phía dưới tầng hầm của quán. Nguyễn Khắc T đi xuống tầng hầm đi vào phòng có Lô Thị P đặt vấn đề mua dâm của Lô Thị P và được Lô Thị P đồng ý bán dâm với giá 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng), sau đó Nguyễn Khắc T và Lô Thị P thực hiện hành vi giao cấu. Đến khoảng 21 giờ 40 phút, Nguyễn Thanh H đến gặp Nguyễn Thanh H để hỏi mua dâm thì được chị Hạ chỉ xuống hầm phía dưới. H đi xuống tầng hầm vào phòng có Lô Thị T, sau đó thực hiện hành vi mua dâm. Lô Thị T đồng ý và yêu cầu trả tiền mua dâm trước nên Nguyễn Thanh H đã lấy 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) đưa cho Lô Thị T. Sau đó Nguyễn Thanh H và Lô Thị T thực hiện hành vi giao cấu. Đến khoảng 22 giờ ngày 11 tháng 8 năm 2020, Công an huyện Nam Đàn phát hiện bắt quả tang Nguyễn Thanh H và Lô Thị T đang thực hiện hành vi mua bán dâm, Nguyễn Khắc T và Lô Thị P vừa thực hiện hành vi mua bán dâm xong đang đứng ở cửa phòng.
Bản cáo trạng số 62/CT-VKS-NĐ, ngày 24/11/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An truy tố Nguyễn Thanh H về tội “Chứa mại dâm” theo điểm c, h khoản 2 Điều 327 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Nam Đàn giữ quyền công tố, luận tội và đề nghị Hội đồng xét xử: Về tội danh: Bị cáo Nguyễn Thanh H phạm tội “Chứa mại dâm”. Về hình phạt: Áp dụng điểm c, h khoản 2 Điều 327; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh H mức án từ 06 năm 06 tháng đến 07 năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 12/8/2020. Về xử lý vật chứng: Đề nghị tịch thu tiêu hủy các bao cao su và vỏ bao cao su thu giữ được; tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước số tiền 400.000 đồng. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa bị cáo nhất trí với bản cáo trạng và luận tội của đại diện Viện kiểm sát. Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt.
Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Nam Đàn, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Nam Đàn, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2]. Về sự vắng mặt của những người tham gia tố tụng: Tại phiên tòa những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt. Tuy nhiên những người này đã có lời khai đầy đủ tại hồ sơ vụ án. Xét thấy sự vắng mặt của những người này không ảnh hưởng đến việc xét xử vụ án nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án theo quy định tại Điều 292 Bộ luật Tố tụng hình sự.
[3]. Về hành vi của bị cáo: Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Thanh H đã khai nhận hành vi của mình phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án và các tài liệu khác có tại hồ sơ vụ án, đủ cơ sở để kết luận: Vào khoảng thời gian từ 21 giờ đến 22 giờ ngày 11/8/2020, tại khối SN, thị trấn NĐ, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, Nguyễn Thanh H đã sử dụng nhà ở của mình cho phép Lô Thị T và Lô Thị P thực hiện hành vi mua bán dâm cho Nguyễn Khắc T và Nguyễn Thanh H để thu lợi.
Hành vi này của Nguyễn Thanh H đủ yếu tố cấu thành tội "Chứa mại dâm". Bị cáo chứa mại dâm 02 đôi mua bán dâm độc lập trong cùng một khoảng thời gian và đã tái phạm nguy hiểm theo Bản án số 18/2014/HSST, ngày 23/4/2014 của Tòa án nhân dân huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý nên bị cáo phải chịu 02 tình tiết tăng nặng định khung là phạm tội 02 lần trở lên và tái phạm nguy hiểm theo quy định tại điểm c, h khoản 2 Điều 327 Bộ luật Hình sự . Bản Cáo trạng số 62/CT-VKS-NĐ, ngày 24/11/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.
[4]. Xét tính chất vụ án, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo: Đây là vụ án thuộc trường hợp rất nghiêm trọng. Hành vi của bị cáo xâm phạm đến đạo đức thuần phong mỹ tục, nếp sống văn minh xã hội chủ nghĩa, trật tự an toàn xã hội. Bị cáo đã 03 lần bị xét xử về tội “Chứa mại dâm” nhưng không thay đổi, lao động chân chính để trở thành người tốt mà sau khi chấp hành xong hình phạt tù một thời gian lại tiếp tục phạm tội này. Hành vi của bị cáo thể hiện sự coi thường pháp luật, coi thường đạo đức xã hội. Vì vậy cần xử lý nghiêm khắc, cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội nhằm giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung. Tuy nhiên, xét bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự; tại Cơ quan Điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bố bị cáo là người có công với cách mạng được Nhà nước tặng thưởng Huân, Huy chương kháng chiến. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự để xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.
[5]. Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo là lao động tự do nên miễn hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 5 Điều 327 Bộ luật Hình sự cho bị cáo.
[6]. Trong vụ án có Nguyễn Khắc T, Nguyễn Thanh H là hai người mua dâm, Lô Thị P và Lô Thị T là hai người bán dâm, hành vi mua bán dâm là vi phạm pháp luật tuy nhiên chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an huyện Nam Đàn đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính theo đúng quy định của pháp luật.
[7]. Về xử lý vật chứng: Đối với 01 bao cao su đã qua sử dụng và 01 vỏ bao cao su (thu tại phòng ngủ số 2); 01 bao cao su đã qua sử dụng (thu tại phòng ngủ số 1) là vật chứng liên quan đến hành vi phạm tội, không còn giá trị sử dụng nên tuyên tịch thu tiêu hủy. Đối với số tiền 400.000 đồng là số tiền mua bán dâm nên tuyên tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.
[8].Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm c, h khoản 2 Điều 327; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh H 07 (Bảy) năm tù về tội “Chứa mại dâm”. Thời hạn tù tính từ ngày 12/8/2020.
Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 90, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu sung Ngân sách Nhà nước số tiền 400.000 đồng (Bốn trăm nghìn đồng). Số tiền này hiện đã được chuyển vào tài khoản số 3949.0.1047745.00000 tại Kho bạc Nhà nước huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An theo Giấy ủy nhiệm chi lập ngày 26 tháng 11 năm 2020 của Công an huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Tịch thu tiêu hủy: 01 bao cao su đã qua sử dụng được đựng trong phong bì ký hiệu P1; 01 vỏ bao cao su và 01 bao cao su đã qua sử dụng được đựng trong phong bì ký hiệu P2. Các vật chứng này hiện có tại kho vật chứng của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An và có đặc điểm chi tiết theo biên bản giao nhận vật chứng lập ngày 26 tháng 11 năm 2020 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Nam Đàn và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.
Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Nguyễn Thanh H phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Bản án 58/2020/HS-ST ngày 24/12/2020 về tội chứa mại dâm
Số hiệu: | 58/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Nam Đàn - Nghệ An |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 24/12/2020 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về