Bản án 58/2019/HNGĐ-ST ngày 11/11/2019 về tranh chấp hôn nhân gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN UH, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 58/2019/HNGĐ-ST NGÀY 11/11/2019 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN GIA ĐÌNH

Ngày 05 tháng 11 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện UHxét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 297/2019/TLST- HNGĐ ngày 13 tháng 8 năm 2019 về tranhh chấp Hôn nhân và gia đình theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 60/2019/QĐXXST- HNGĐ ngày 08 tháng 10 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 39/2019/QĐHPT-HNGĐ ngày 24 tháng 10 năm 2019 giữa các đương sự:

*Nguyên đơn:Anh Nghiêm Bá A - sinh năm 1983; Nguyên quán và nơi ĐKHKTT: thôn MH, xã HS, huyện UH, thành phố Hà Nội.

*Bị đơn: ChNguyễn Thị T-sinh năm 1989; Nguyên quán và nơi ĐKHKTT: thôn YT, xã TT, huyện UH,Thành phố Hà Nội.

(Anh Nghiêm Bá A có đơn xin vắng mặt; chị T vắng mặt không có lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn xin ly hôn, biên bản lấy lời khai, Anh Nghiêm Bá A là nguyên đơn trình bày: A và chị Nguyễn Thị T tự nguyện kết hôn, có đăng ký kết hôn tại UBND xã HS năm 2017. Quá trình vợ chồng chung sống thường xuyên phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân chính là do trước khi đi đến hôn nhân hai Anh chị không có thời gian dài tìm hiểu về nhau, Anh chị quen nhau là do giới thiệu được thời gian rất ngắn thì kết hôn. Khi về chung sống với nhau nhận thấy tính cách hai vợ chồng quá khác nhau, lối sống của hai vợ chồng cũng khác nhau, dẫn đến hai vợ chồng không thể ngồi nói chuyện được với nhau, hơn nữa cho đến hiện nay vợ chồng A cũng chưa có con chung nên mâu thuẫn vợ chồng lại càng căng thẳng, trầm trọng hơn. Hai Anh chị sống ly thân khoảng hơn 01 năm, nay không quan tâm đến nhau. Anh nhận thấy không có tình cảm gì với chị T, nên xin được ly hôn với chị T.

Về con chung, tài sản chung, công nợ chung: Anh chị không có, A không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Anh Nghiêm Bá A có quan điểm đề nghị Tòa án không tiến hành hòa giải vì A không bao giờ thay đổi nguyện vọng xin ly hôn với chị T.

Tại biên bản xác minh ngày 30/8/2019: Chính quyền địa phương xã HS và xã TT cung cấp: chị Nguyễn Thị T, sinh năm 1989 là người ở thôn YT, xã TT, huyện UH có đăng ký kết hôn với Anh Nghiêm Bá A, sinh năm 1983 vào ngày 31/10/2017 tại UBND xã HS. Sau khi kết hôn chị T chuyển về chung sống với anh A cùng bố mẹ anh A ở tại thôn MH, xã HS, huyện UH, thành phố Hà Nội nhưng chị T không chuyển hộ khẩu về nhà anh A. Về mâu thuẫn giữa hai vợ chồng chị T A A cụ thể như thế nào chính quyền địa phương không nắm được, chỉ biết sau khi chị T mang thai nhưng khi sinh con không may cháu bé bị mất, nên chị T chuyển về nhà mẹ đẻ ở và ở lại nhà mẹ đẻ luôn, không về chung sống với anh A nữa đã được khoảng 01 năm nay. Chị T hiện đang thường xuyên sinh sống cùng mẹ đẻ tại nhà mẹ đẻ ở thôn YT, xã TT, huyện UH. Chị T và anh A không có con chung cho tới thời điểm hiện tại. Nay anh A có đơn xin ly hôn chị T, quan điểm của chính quyền địa phương đề nghị Toà án giải quyết theo quy định pháp luật bảo đảm quyền lợi cho các công dân.

Tại phiên tòa, anh A và chị T đều vắng mặt, anh A có đơn trình bày quan điểm vẫn giữ nguyên ý kiến như nội dung trình bày tại Tòa trước đây và không xuất trình thêm tài liệu chứng cứ nào khác.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện UH phát biểu ý kiến: Quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã thực hiện đầy đủ các quy định về tố tụng dân sự như tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho các đương sự, tiến hành các thủ tục theo đúng quy định nhưng không hòa giải được vì lý do bị đơn vắng mặt không có lý do chính đáng mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai. Hội đồng tiến hành xét xử vụ án đúng quy định của pháp luật. Về nội dung vụ án: đề nghị Tòa giải quyết cho anh A được ly hôn với chị T; anh A phải nộp án phí ly hôn theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Anh Nghiêm Bá A làm đơn ly hôn và đã đóng dự phí ly hôn theo đúng quy định của pháp luật. Đây là vụ án tranhh chấp hôn nhân và gia đình, Tòa án nhân dân huyện UHtiến hành thụ lý, giải quyết theo đúng thẩm quyền, Tòa án đã triệu tập chị Tđến Tòa để hòa giải và tham gia phiên toà nhưng chị T không hợp tác, không chấp hành, anh A có đơn xin vắng mặt tại phiên toà. Tòa án xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn theo đúng quy định tại Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2]Về hôn nhân: Anh Nghiêm Bá A và chị Nguyễn Thị T kết hôn trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại UBND xã HS ngày 31/10/2017 là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống hai vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân chủ yếu là do tính tình hai vợ chồng khác nhau, thường xuyên cảy ra bất đồng quan điểm trên mọi lĩnh vực trong cuộc sống, trước khi kết hôn hai Anh chị chưa tìm hiểu kỹ về nhau, mặt khác anh A và chị T chung sống với nhau đã lâu mà vẫn chưa có con chung. Hai vợ chồng đã có thời gian dài sống ly thân, anh A cương quyết xin được ly hôn với chị T. Đối với chị T trong suốt quá trình triệu tập đến Tòa và thong báo hòa giải, làm việc và phiên tòanh chị T đều không đến Tòa, vắng mặt không có lý do chính đáng, thể hiện chống đối.

Hi đồng xét xử thấy, mâu thuẫn vợ chồnggiữanh chị T với anh A là căng thẳng, đã sống ly thân hơn 01 năm, hôn nhân giữa hai vợ chồng thực sự lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, nên xử chấp nhận đơn ly hôn của anh A, xử cho anh A được ly hôn với chị T là phù hợp với quy định củaKhoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[3] Về con chung: A A và chị Tchưa có con chung.

[4] Về tài sản và công nợ chung: Anh Nghiêm Bá A không yêu cầu đề nghị Tòa giải quyết. Trường hợp sau này chị T có yêu cầu, đề nghị Toà án giải quyết về việc liên quan đến tài sản, công nợ chung của hai vợ chồng thì dành quyền khởi kiện cho chị T trong vụ án khác.

[5] Về án phí và quyền kháng cáo: Anh Nghiêm Bá A phải nộp án phí ly hôn sơ thẩm; nguyên đơn và bị đơn đều có quyền kháng cáotheo quy định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 39 Bộ luật dân sự (năm 2015) và căn cứ khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình (năm 2014); khoản 4 Điều 147; Điều 228; Điều 271 và Điều 273 Bộ luật tố tụng Dân sự (năm 2015); Nghị quyết 326 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, xử:

1. Về hôn nhân: Anh Nghiêm Bá Ađược ly hônchị Nguyễn Thị T.

2. Về con chung: Anh Nghiêm Bá A và chị Nguyễn Thị T chưa có con chung.

3.Về tài sản, công nợ chung: Anh Nghiêm Bá A không yêu cầu giải quyết.

4.Về án phí: Anh Nghiêm Bá A phải nộp 300.000đ tiền án phí ly hôn sơ thẩm được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số 0009273 ngày 13 tháng 8 năm 2019 tại Chi cục Thi hành án Dân sự huyện UH, thành phố Hà Nội.

5.Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn và bị đơn đều có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc bản án được niêm yết tại trụ sở UBND xã nơi thường trú./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

214
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 58/2019/HNGĐ-ST ngày 11/11/2019 về tranh chấp hôn nhân gia đình

Số hiệu:58/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ứng Hòa - Hà Nội
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 11/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;