Bản án 58/2018/HS-ST ngày 01/11/2018 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN B - TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 58/2018/HS-ST NGÀY 01/11/2018 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 01 tháng 11 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Tây Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 60/2018/TLST- HS ngày 17 tháng 10 năm 2018, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 57/2018/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 10 năm 2018 và thông báo hoãn phiên tòa số: 11/TBTA, ngày 29 tháng 10 năm 2018, đối với bị cáo:

Ngô Hồng T (tự X), sinh ngày 23-02-1977, tại tỉnh Tây Ninh. Nơi cư trú: ấp A, xã T, huyện B, tỉnh Tây Ninh; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ văn hóa: 7/12; dân tộc: kinh; giới tính: nữ; tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Ngô Văn D (đã chết) và bà Phan Thị C; có chồng: Trương Văn T và 02 con; tiền sự: không có; tiền án: Ngày 06-6-2001, bị Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Tây Ninh xử phạt 12 tháng tù, về tội: “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”; Ngày 19-7-2001, bị Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Tây Ninh xử phạt 06 tháng tù, về tội: “Công nhiên chiếm đoạt tài sản”; nhân thân: Ngày 01-01-1996, bị Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Tây Ninh xử phạt 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, về tội: “Trộm cắp tài sản”; bị bắt tạm giam từ ngày 09-8-2018 cho đến nay; có mặt.

Bị hại:

1. Bà Lê Thị B, sinh năm: 1960; địa chỉ: ấp L, xã L, huyện B, tỉnh Tây Ninh; vắng mặt.

2. Anh Phan Thanh L, sinh năm: 1987; địa chỉ: ấp A, xã T, huyện B, tỉnh Tây Ninh; có mặt.

3. Anh Phạm Văn T, sinh năm: 1971; địa chỉ: ấp A, xã T, huyện B, tỉnh Tây Ninh; có mặt.

4. Anh Nguyễn Văn P, sinh năm: 1997; địa chỉ: ấp T, xã L, huyện B, tỉnh Tây Ninh; có mặt.

5. Chị Phan Thị H, sinh năm: 1987; địa chỉ: ấp T, xã L, huyện B, tỉnh Tây Ninh; vắng mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Anh Lê Văn S, sinh năm: 1988; địa chỉ: ấp L, xã L, huyện B, tỉnh Tây Ninh; vắng mặt.

2. Anh Trương Văn T, sinh năm: 1969; địa chỉ: ấp A, xã T, huyện B, tỉnh Tây Ninh; vắng mặt.

3. Chị Phan Thị Mỹ L, sinh năm: 1988; địa chỉ: ấp T, xã L, huyện B, tỉnh Tây Ninh; vắng mặt.

4. Anh Nguyễn Văn Q, sinh năm: 1993; địa chỉ: ấp T, xã L, huyện B, tỉnh Tây Ninh; có mặt.

5. Chị Cao Thị D, sinh năm: 1993; địa chỉ: ấp L, xã L, huyện B, tỉnh Tây Ninh; vắng mặt.

6. Chị Phạm Thị T, sinh năm: 1970; địa chỉ: ấp A, xã T, huyện B, tỉnh Tây Ninh; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 10 giờ, ngày 20-7-2018, Ngô Hồng T thuê xe ôm đến nhà anh Lê Văn S, tại ấp L, xã L, huyện B, tỉnh Tây Ninh. Khi đến nơi, T thấy xe mô tô biển số 70C1-243.23 của anh S đang để tại nhà do bà Lê Thị B là mẹ ruột anh S đang trông giữ, nên nói dối bà B đã được anh S cho mượn xe, bà B đồng ý giao xe cho T. Nhận được xe, T điều khiển sang Campuchia cầm cố tại tiệm cầm đồ không rõ biển hiệu được 14.000.000 đồng, đánh bạc thua hết. Anh S về nhà biết T đã chiếm đoạt xe mô tô nên sang Campuchia tìm chuộc xe với số tiền: 15.000.000 đồng và đến Công an xã L, huyện B, tỉnh Tây Ninh yêu cầu giải quyết.

Qua điều tra, T thừa nhận hành vi phạm tội và còn khai nhận thực hiện 06 vụ lừa đảo chiếm đoạt tài sản tại huyện B, tỉnh Tây Ninh, cụ thể như sau:

Vụ thứ nhất: Vào khoảng 13 giờ, ngày 13-7-2018, T điện thoại cho anh Phan Thanh L nói dối mượn xe mô tô biển số 70C1-194.43 đi lấy tiền mủ cao su ở huyện T, tỉnh Tây Ninh, anh L đồng ý. Nhận được xe T điều khiển sang Campuchia cầm cố cho một người Campuchia (không rõ lai lịch) được 8.000.000 đồng, đánh bạc và tiêu xài cá nhân hết.

Vụ thứ hai: Vào khoảng 08 giờ 30 phút, ngày 14-7-2018, T điện thoại cho anh Phạm Văn T nói dối mượn xe mô tô biển số 70C1-191.16 đi lấy tiền mủ cao su, anh T đồng ý. Nhận được xe, T điều khiển sang Campuchia cầm cố cho một người Campuchia (không rõ lai lịch) được 13.000.000 đồng, đánh bạc và tiêu xài cá nhân hết.

Vụ thứ ba: Khoảng 17 giờ 30 phút, ngày 15-7-2018, T điều khiển xe mô tô Dream biển số 70H6-3499 của gia đình đến khu vực C thuộc ấp T, xã L, huyện B, tỉnh Tây Ninh gặp anh Nguyễn Văn P, T nói dối mượn xe mô tô biển số 70C1-235.74 của anh P đi công việc tại huyện G, tỉnh Tây Ninh, anh P đồng ý. Sau đó, T để xe mô tô biển số 70K6-3499 tại nhà anh P và điều khiển xe mô tô của anh P sang Campuchia cầm cố cho một người Campuchia (không rõ lai lịch) được 13.000.000 đồng, đánh bạc thua hết.

Vụ thứ tư: Khoảng 10 giờ 30 phút, ngày 27-7-2018, T tiếp tục nảy sinh ý định chiếm đoạt xe mô tô biển số 70C1-191.16 của anh T, nên hẹn anh T đến khu vực gần Ủy ban nhân dân xã T, huyện B, tỉnh Tây Ninh để nói chuyện. Tại đây, T nói dối mượn xe của anh T đến nhà Cao Thị D tại ấp L, xã L, huyện B, tỉnh Tây Ninh chở D đi chuộc xe ở Campuchia, anh T đồng ý. Nhận được xe, T điều khiển sang Campuchia cầm cố cho một người Campuchia được 13.000.000 đồng, đánh bạc thua hết.

Vụ thứ năm: Ngày 30-7-2018, T tiếp tục nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản của anh T, nên liên lạc với anh T nói dối đang có số tiền 10.000.000 đồng và mượn anh T 5.000.000 đồng để chuộc xe trả cho anh T, T kêu anh T gửi tiền cho ông Đinh Văn K làm nghề chạy xe ôm để đưa cho T, anh T đồng ý. Sau khi lấy được tiền, T sang Campuchia đánh bạc thua hết.

Vụ thứ sáu: Khoảng 15 giờ, ngày 01-8-2018, T đến nhà chị Phan Thị H tại ấp T, xã L, huyện B, tỉnh Tây Ninh nói dối mượn xe mô tô biển số 93F3-6369 của chị H đi đến xã A, huyện B, tỉnh Tây Ninh đánh ghen, chị H đồng ý. Nhận được xe, T điều khiển sang Campuchia cầm cố cho một người Campuchia (không rõ lai lịch) được 1.500.000 đồng, đánh bạc thua hết.

Tại bản kết luận định giá tài sản Số 44, ngày 07-8-2018; Số 48, ngày 20-8-2018; Số 49, ngày 22-8-2018 và Số 52, ngày 24-9-2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện B, tỉnh Tây Ninh kết luận: xe mô tô biển số: 70C1-243.23 có giá trị 15.000.000 đồng; xe mô tô biển số 70C1-194.43 có giá trị 12.000.000 đồng; xe mô tô biển số 70C1-191.16 có giá trị 17.500.000 đồng; xe mô tô biển số 93F3-6369 có giá trị 2.500.000 đồng; xe mô tô biển số 70C1- 235.74 có giá trị 15.000.000 đồng; 70C1-191.16 có giá trị 17.500.000 đồng.

Kết quả thu giữ và xử lý vật chứng: có bảng thống kê kèm theo.

Về bồi thường thiệt hại: bị can T đã bồi thường cho bà Lê Thị B, anh Phan Thanh L và chị Phan Thị H xong. Ông Phạm Văn T yêu cầu bồi thường 36.500.000 đồng; anh Nguyễn Văn P yêu cầu bồi thường 15.000.000 đồng, T chưa bồi thường.

Kê biên tài sản: Ngô Hồng T không có tài sản, nên không kê biên.

Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của bị cáo, vật chứng bị thu giữ, trách nhiệm bồi thường thiệt hại về tài sản cho người bị hại, như nội dung bản Cáo trạng đã nêu.

Bản cáo trạng số: 60/CT-VKS ngày 16 tháng 10 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện B đã truy tố Ngô Hồng T về tội: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm b, c khoản 2 Điều 174 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm b, c khoản 2 Điều 174; các điểm g, h Khoản 1 Điều 52; các điểm b, s, r Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; người bị hại có yêu cầu giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Từ các căn cứ trên, đề nghị xử phạt Ngô Hồng T từ 04 năm đến 05 năm tù. Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

Các biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều Điều 47 và 48 của Bộ luật Hình sự; Điều 589 của Bộ luật Dân sự.

Đề nghị xử lý vật chứng và bồi thường thiệt hại theo pháp luật quy định. Những người bị hại trình bày: Anh T yêu cầu bồi thường thiệt hại 36.500.000 đồng và xử lý bị cáo theo pháp luật quy định. Anh P yêu cầu bồi thường thiệt hại 15.000.000 đồng và xử lý bị cáo theo pháp luật quy định. Anh L đã nhận lại tài sản, không có yêu cầu bị cáo bồi thường, đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Bị cáo T nói lời sau cùng: Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của bị cáo,đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt mức án thấp nhất do Viện kiểm sát đề nghị.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện B, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện B, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi của bị cáo thể hiện:

Khoảng 10 giờ, ngày 20-7-2018, tại ấp L, xã L, huyện B, tỉnh Tây Ninh. Bị cáo T đến nhà anh Lê Văn S thấy xe mô tô biển số 70C1-243.23 để tại nhà do bà Lê Thị B là mẹ ruột anh S đang trông giữ. Bị cáo T nói dối với bà B là đã được anh S cho mượn xe, bà B đồng ý giao xe cho bị cáo T. Nhận được xe, bị cáo T điều khiển sang Campuchia cầm cố tại tiệm cầm đồ không rõ biển hiệu được 14.000.000 đồng, đánh bạc thua hết. Anh S về nhà biết bị cáo T đã chiếm đoạt xe mô tô nên sang Campuchia tìm chuộc xe với số tiền: 15.000.000 đồng và đến Công an xã L, huyện B, tỉnh Tây Ninh yêu cầu giải quyết. Tại Cơ quan điều tra, bị cáo T đã bồi thường thiệt hại cho bà B và anh S xong.

Qua điều tra, bị cáo T thừa nhận hành vi phạm tội và còn khai nhận thực hiện 06 vụ lừa đảo chiếm đoạt tài sản tại huyện B, tỉnh Tây Ninh, cụ thể như sau:

Vụ thứ nhất: Vào khoảng 13 giờ, ngày 13-7-2018, bị cáo T điện thoại cho anh Phan Thanh L nói dối mượn xe mô tô biển số 70C1-194.43 đi lấy tiền mủ cao su ở huyện T, tỉnh Tây Ninh, anh L đồng ý. Nhận được xe bị cáo T điều khiển sang Campuchia cầm cố cho một người Campuchia (không rõ lai lịch) được 8.000.000 đồng, đánh bạc và tiêu xài cá nhân hết. Xe của anh L là tài sản của chị Phan Thị Mỹ L, chị L là chị ruột của anh L, chị L giao xe cho anh L sử dụng. Sau khi xảy ra vụ án, bị cáo T đã chuộc xe về và Cơ quan điều tra đã trả lại cho anh L và chị L xong.

Vụ thứ hai: Vào khoảng 08 giờ 30 phút, ngày 14-7-2018, bị cáo T điện thoại cho anh Phạm Văn T nói dối mượn xe mô tô biển số 70C1-191.16 đi lấy tiền mủ cao su, anh T đồng ý. Nhận được xe, bị cáo T điều khiển S Campuchia cầm cố cho một người Campuchia (không rõ lai lịch) được 13.000.000 đồng, đánh bạc và tiêu xài cá nhân hết. Ngày 19-7-2018, anh T đưa cho bị cáo T 15.000.000 đồng để chuộc xe mô tô về trả lại cho anh T xong.

Vụ thứ ba: Khoảng 17 giờ 30 phút, ngày 15-7-2018, bị cáo T điều khiển xe mô tô Dream biển số 70H6-3499 của gia đình đến khu vực C thuộc ấp T, xã L, huyện B, tỉnh Tây Ninh gặp anh Nguyễn Văn P. Bị cáo T nói dối mượn xe mô tô biển số 70C1-235.74 của anh P đi công việc tại huyện G, tỉnh Tây Ninh, anh P đồng ý. Sau đó, bị cáo T để xe mô tô biển số 70K6-3499 tại nhà anh P và điều khiển xe mô tô của anh P sang Campuchia cầm cố cho một người Campuchia (không rõ lai lịch) được 13.000.000 đồng, đánh bạc thua hết. Xe của anh P do anh Nguyễn Văn Q đứng tên, anh Q đã bán cho anh P nhưng không làm giấy tờ gì. Anh P đã giao xe cho bị cáo T mượn, bị cáo đã thế chấp và không thu hồi lại được.

Vụ thứ tư: Khoảng 10 giờ 30 phút, ngày 27-7-2018, bị cáo T tiếp tục nảy sinh ý định chiếm đoạt xe mô tô biển số 70C1-191.16 của anh T, nên hẹn anh T đến khu vực gần Ủy ban nhân dân xã T, huyện B, tỉnh Tây Ninh để nói chuyện. Tại đây, bị cáo T nói dối mượn xe của anh T đến nhà chị Cao Thị D tại ấp L, xã L, huyện B, tỉnh Tây Ninh chở D đi chuộc xe ở Campuchia, anh T đồng ý. Nhận được xe, bị cáo T điều khiển sang Campuchia cầm cố cho một người Campuchia được 13.000.000 đồng, đánh bạc thua hết. Xe của anh T do bị cáo T đã thế chấp và không thu hồi lại được.

Vụ thứ năm: Ngày 30-7-2018, bị cáo T tiếp tục nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản của anh T, nên liên lạc với anh T nói dối đang có số tiền 10.000.000 đồng và mượn anh T 5.000.000 đồng để chuộc xe trả cho anh T, bị cáo T kêu anh T gửi tiền cho ông Đinh Văn K làm nghề chạy xe ôm để đưa cho bị cáo T, anh T đồng ý. Sau khi lấy được tiền, bị cáo T sang Campuchia đánh bạc thua hết.

Vụ thứ sáu: Khoảng 15 giờ, ngày 01-8-2018, bị cáo T đến nhà chị Phan Thị H tại ấp T, xã L, huyện B, tỉnh Tây Ninh nói dối mượn xe mô tô biển số 93F3-6369 của của chị H đi đến xã A, huyện B, tỉnh Tây Ninh đánh ghen, chị H đồng ý. Nhận được xe, bị cáo T điều khiển sang Campuchia cầm cố cho một người Campuchia (không rõ lai lịch) được 1.500.000 đồng, đánh bạc thua hết. Sau khi xảy ra vụ án, bị cáo T đã chuộc về và Cơ quan điều tra đã trả lại cho chị H xong.

Tại bản kết luận định giá tài sản Số 44, ngày 07-8-2018; Số 48, ngày 20-8-2018; Số 49, ngày 22-8-2018 và Số 52, ngày 24-9-2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện B, tỉnh Tây Ninh kết luận: xe mô tô biển số: 70C1-243.23 có giá trị 15.000.000 đồng; xe mô tô biển số 70C1-194.43 có giá trị 12.000.000 đồng; xe mô tô biển số 70C1-191.16 có giá trị 17.500.000 đồng; xe mô tô biển số 93F3-6369 có giá trị 2.500.000 đồng; xe mô tô biển số 70C1- 235.74 có giá trị 15.000.000 đồng; 70C1-191.16 có giá trị 17.500.000 đồng.

Như vậy, hành vi phạm tội của bị cáo T xuất phát từ việc bị cáo nghiện cờ bạc, thường xuyên S Casino - Campuchia đánh bạc thua tiền nhiều lần. Do đó, bị cáo dùng thủ đoạn gian dối, đưa thông tin sai sự thật để mượn tài sản của những người bị hại điều khiển sang Campuchia thế chấp, lấy tiền đánh bạc và bị thua hết tiền. Bị cáo T thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản của bị hại đến 07 lần, bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, dùng tài sản chiếm đoạt được để đánh bạc, làm nguồn thu nhập chính cho bản thân. Tài sản do bị cáo chiếm đoạt có giá trị là: 84.500.000 đồng. Do đó, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện B; Viện kiểm sát nhân dân huyện B đã khởi tố vụ án, khởi tố bị can và bắt tạm giam, truy tố bị cáo Ngô Hồng T theo điểm b, c khoản 2 Điều 174 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Hành vi của bị cáo T là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân, làm mất trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo phạm tội nghiêm trọng, bị cáo có nhân thân xấu, đã từng bị Tòa án xử phạt về tội “Lạm dụng tính nhiệm chiếm đoạt tài sản” và tội “Công nhiên chiếm đoạt tài sản” đến nay chưa T hành xong phần trách nhiệm dân sự, nay lại tiếp tục phạm tội là tái phạm. Bản thân của bị cáo có đủ năng lực hành vi và năng lực pháp luật. Do đó, cần có mức hình phạt nghiêm khắc đối với hành vi đối với bị cáo mới có tính răn đe, giáo dục và phòng chống tội phạm.

Trong quyết định hình phạt có xem xét các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng đối với bị cáo:

+ Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo đã khắc phục một phần bồi thường Tệt hại cho người bị hại; bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo tự thú hành vi phạm tội trước đó; người bị hại có yêu cầu giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Những tình tiết giảm nhẹ này được quy định tại các điểm b, s, r Khoản 1, Khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

+ Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội 02 lần trở lên, tái phạm theo quy định tại Điểm g, h Khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

Về hình phạt bổ sung, theo quy định tại khoản 5 Điều 174 của Bộ luật Hình sự quy định: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm”, do đó bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy bị cáo là lao động tự do, không có thu nhập ổn định, điều kiện kinh tế còn khó khăn. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

[4] Các biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 47 và Điều 48 của Bộ luật Hình sự; Điều 589 của Bộ luật Dân sự.

+ Về xử lý vật chứng: 01 xe mô tô hiệu Dream, màu nâu, biển số 70K6- 3499, số máy VTTJL1P50FMG, số khung VTTDCG053TT.006345, đã qua sử dụng là tài sản của anh Trương Văn T, do bị cáo T lấy đi sử dụng, nên trả lại cho anh T.

+ Về bồi thường Tệt hại:

Buộc bị cáo Ngô Hồng T phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho anh Phạm Văn T 36.500.000 đồng; bồi thường cho anh Nguyễn Văn P 15.000.000 đồng.

Ghi nhận: Bị cáo Ngô Hồng T đã bồi thường cho bà Lê Thị B, anh Phan Thanh L và chị Phan Thị H xong.

[5] Về án phí: Bị cáo Ngô Hồng T phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm b, c khoản 2 Điều 174; điểm g, h khoản 1 Điều 52; các điểm b, s, r Khoản 1, Khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

1. Tuyên bố: Bị cáo Ngô Hồng T phạm tội: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Phạt bị cáo Ngô Hồng T 04 (bốn) năm tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 09-8-2018.

2. Các biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 47 và Điều 48 của Bộ luật Hình sự; Điều 589 của Bộ luật Dân sự.

+ Về xử lý vật chứng: Trả lại cho anh Trương Văn T 01 xe mô tô hiệu Dream, màu nâu, biển số 70K6-3499, số máy VTTJL1P50FMG, số khung VTTDCG053TT.006345, đã qua sử dụng.

+ Về trách nhiệm dân sự:

Buộc bị cáo T phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho anh Phạm Văn T 36.500.000 (ba mươi sáu triệu năm trăm ngàn) đồng và bồi thường cho anh Nguyễn Văn P 15.000.000 (mười lăm triệu) đồng.

Ghi nhận: Bị cáo T đã bồi thường cho bà Lê Thị B, anh Phan Thanh L và chị Phan Thị H xong.

Kể từ ngày anh Phạm Văn T, anh Nguyễn Văn P có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bị cáo Ngô Hồng T không chịu trả số tiền nêu trên, thì hàng tháng bị cáo Ngô Hồng T còn phải trả cho anh Phạm Văn T, anh Nguyễn Văn P số tiền lãi đối với số tiền chậm trả theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự.

3. Án phí: Áp dụng Điều 135 và Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự, bị cáo Ngô Hồng T phải chịu 200.000 (hai trăm ngàn) đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm và 2.575.000 (hai triệu năm trăm bảy mươi lăm ngàn) đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo đối với bản án: Bị cáo, bị hại được quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh, trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người vắng mặt có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh, trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo Bộ luật Tố tụng hình sự quy định.

Trường hợp quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7, 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

231
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 58/2018/HS-ST ngày 01/11/2018 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:58/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bến Cầu - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 01/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;