Bản án 57/2020/HNGĐ-ST ngày 24/09/2020 về tranh chấp ly hôn và nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ BẾN CÁT, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 57/2020/HNGĐ-ST NGÀY 24/09/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON

Ngày 24 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 500/2020/TLST-HNGĐ ngày 18 tháng 6 năm 2020 về việc: “Tranh chấp ly hôn, nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:147/2020/QĐXX-ST ngày 14 tháng 8 năm 2020, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Phan Ngọc H, sinh năm 1992 Hộ khẩu thường trú: Ấp C, xã Đ, huyện A, tỉnh K.

Tạm trú: Tổ 12, khu phố 3, phường M, thị xã B, tỉnh B (có đơn xin vắng mặt).

- Bị đơn: Ông Trần Văn T, sinh năm 1988 Hộ khẩu thường trú: Ấp 9, xã K, huyện U, tỉnh C Tạm trú: Tổ 12, khu phố 3, phường M, thị xã B, tỉnh B (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

1. Theo Đơn khởi kiện ngày 10/6/2020 và lời khai trong quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án, nguyên đơn bà Phan Ngọc H trình bày:

Bà H và ông T đăng ký kết hôn ngày 09/8/2017 tại Ủy ban nhân dân xã K, huyện U, tỉnh C. Việc kết hôn là hoàn toàn tự nguyện. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc. Tuy nhiên, sau đó vợ chồng nảy sinh nhiều mâu thuẫn. Nguyên nhân do không hợp nhau, bất đồng quan điểm, thường xuyên cãi vã nhau. Ông T thường xuyên bỏ nhà đi ra ngoài từ 03 đến 04 ngày mới về. Bà H và ông T đã ly thân từ tháng 5 năm 2020 cho đến nay, không còn quan tâm, chăm sóc nhau. Bà H nhận thấy mâu thuẫn vợ chồng đã quá trầm trọng không thể hàn gắn, mục đích hôn nhân không đạt được, không thể duy trì hôn nhân. Do vậy, bà H khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết những vấn đề sau:

Về quan hệ hôn nhân: Bà yêu cầu được ly hôn với ông Trần Văn T.

Về con chung: Bà H và ông T có 01 con chung là Trần Nhật H, sinh ngày 16/01/2018. Bà H yêu cầu được nuôi con và không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Bà H không tranh chấp và không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đồng thời, bà H cũng có đơn xin được vắng mặt tại phiên tòa xét xử vụ án.

2. Tại Biên bản lấy lời khai của đương sự ngày 13/7/2020, lời khai trong quá trình tham giá tố tụng tại Tòa án bị đơn ông Trần Văn T trình bày:

Ông T và bà H đăng ký kết hôn vào năm 2017 tại UBND xã K, huyện U , tỉnh C. Hôn nhân giữa hai người là tự nguyện. Thời gian đầu chung sống hạnh phúc, hòa thuận được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn không thể hàn gắn được. Hiện tại giữa ông T và bà H không còn quan tâm chăm sóc nhau. Ông T và bà H đã ly thân từ khoảng tháng 5 năm 2020 cho đến nay. Tuy vợ chồng có nảy sinh mâu thuẫn nhưng ông T vẫn muốn sống chung với bà H để chăm sóc con chung nên ông T không đồng ý ly hôn.

Về con chung: Bà H và ông T có 01 con chung là Trần Nhật H, sinh ngày 16/01/2018. Ông T không đồng ý ly hôn nên không có ý kiến về vấn đề con chung.

Về tài sản chung, nợ chung: Không tranh chấp không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát phát biểu quan điểm:

- Về thủ tục tố tụng: Thẩm phán, Thư ký và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Nguyên đơn đã có đơn xin xét xử vắng mặt. Phía bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Đề nghị Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt đối với nguyên đơn và bị đơn.

- Về nội dung vụ án: Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ, phù hợp với quy định pháp luật, nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết:

Đây là vụ án tranh chấp ly hôn, bị đơn ông Trần Văn T tạm trú tại khu phố 3, phường M, thị xã B, tỉnh B. Căn cứ vào các Điều 28, 35 và 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì vụ án này thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương.

Nguyên đơn đã có ý kiến xin được xét xử vắng mặt. Bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ tham gia phiên tòa đến lần thứ hai, nhưng vẫn vắng mặt không có lý do, nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt đối với nguyên đơn và bị đơn theo thủ tục chung được quy định tại Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Về quan hệ hôn nhân:

Bà H và ông T tự nguyện đăng ký kết hôn vào ngày 09/8/2017 tại UBND xã K, huyện U, tỉnh C. Như vậy, hôn nhân giữa ông T và bà H là hôn nhân hợp pháp được pháp luật thừa nhận. Bà H cho rằng mâu thuẫn giữa bà H và ông T đã đến mức trầm trọng, không thể hàn gắn, vợ chồng đã sống ly thân không còn quan tâm chăm sóc nhau nên bà yêu cầu được ly hôn.

Xét thấy, quá trình làm việc tại Tòa án, bị đơn ông T cũng thừa nhận giữa ông và bà H có nảy sinh mâu thuẫn. Từ tháng 5/2020 cho đến nay vợ chồng đã sống ly thân không còn quan tâm, chăm sóc nhau. Ngoài ra, ông T không đồng ý ly hôn vì muốn sống chung với bà H để chăm sóc con cái nhưng khi Tòa án triệu tập ông tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai, chứng cứ, hòa giải và tham gia phiên tòa ông T lại vắng mặt không có lý do. Điều đó cho thấy ông T không có thiện chí hàn gắn với bà H.

Như vậy, mâu thuẫn giữa bà H và ông T đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, nên bà H khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông T là có căn cứ chấp nhận.

[3] Về con chung: Bà H và ông T có 01 con chung là Trần Nhật H, sinh ngày 16/01/2018, bà H yêu cầu được nuôi con chung. Xét thấy, quá trình tham gia tố tụng, ông T không có ý kiến về việc chăm sóc con chung và hiện nay con chung đang do bà H chăm sóc, nuôi dưỡng. Để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của con theo quy định tại Điều 81, 82 và 83 của Luật Hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử xét thấy nguyện vọng được nuôi con chung của bà H là phù hợp có căn cứ chấp nhận nên cần giao các cháu tên H cho bà H nuôi dưỡng.

Bà H không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con nên không xem xét giải quyết.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: Các đương sự không tranh chấp, không yêu cầu giải quyết, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[5] Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Bà H phải chịu theo quy định của pháp luật.

[6] Xét lời đề nghị của vị đại diện Viện Kiểm sát tại phiên tòa là có căn cứ, nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ các Điều 28, 35, 39, 147, 227 và 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

- Căn cứ các Điều 51, 56, 81, 82, 83 và 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Căn cứ Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý, sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Phan Ngọc H đối với bị đơn ông Trần Văn T về việc: “Tranh chấp ly hôn, nuôi con” như sau:

- Về quan hệ hôn nhân: Bà Phan Ngọc H được ly hôn với ông Trần Văn T.

- Về con chung: Giao con chung là Trần Nhật H, sinh ngày 16/01/2018 cho bà H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Ông T không phải cấp dưỡng nuôi con.

Bà H và ông T đều có quyền và nghĩa vụ đối với con chung, ông T được quyền thăm nom, chăm sóc con chung không ai được cản trở. Khi cần thiết, vì lợi ích của con, một hoặc cả hai bên đều có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con và việc cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Không tranh chấp, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

2. Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm:

Bà Phan Ngọc H phải nộp 300.000 đồng, được khấu trừ vào 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu số AA/2016/0047700 ngày 18/6/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương.

3. Về quyền kháng cáo:

Các đương sự vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được Bản án hoặc Bản án được niêm yết công khai theo quy định pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

195
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 57/2020/HNGĐ-ST ngày 24/09/2020 về tranh chấp ly hôn và nuôi con

Số hiệu:57/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Bến Cát - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 24/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;