Bản án 57/2020/HNGĐ-ST ngày 08/07/2020 về tranh chấp yêu cầu ly hôn và nuôi con chung

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐÔNG HẢI - TỈNH BẠC LIÊU

BẢN ÁN 57/2020/HNGĐ-ST NGÀY 08/07/2020 VỀ TRANH CHẤP YÊU CẦU LY HÔN VÀ NUÔI CON CHUNG

Ngày 08 tháng 7 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đông Hải xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 299/2020/TLST-HNGĐ ngày 15 tháng 5 năm 2020 về việc “Tranh chấp yêu cầu ly hôn và nuôi con chung”, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 72/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 18 tháng 6 năm 2020 giữa các đương sự:

1/. Nguyên đơn: Chị Trần Huyền Tr, sinh năm 1998 Địa chỉ: ấp CG, xã ĐT, huyện ĐH, tỉnh Bạc Liêu Chỗ ở hiện nay: ấp PM, xã ĐT A, huyện Đông Hải, tỉnh Bạc Liêu

2/. Bị đơn: Anh Dương Văn N, sinh năm 1992 Địa chỉ: ấp CG, xã ĐT, huyện ĐH, tỉnh Bạc Liêu (Chị Tr và anh N có mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 02/3/2020, lời khai trong quá trình tố tụng, tại phiên tòa hôm nay nguyên đơn chị Trần Huyền Tr và bị đơn anh Dương Văn N trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: chị Trần Huyền Tr và anh Dương Văn N thống nhất xác định anh chị đi đến hôn nhân do mai mối, hôn nhân hoàn toàn tự nguyện, được cha mẹ hai bên tổ chức đám cưới theo phong tục tại địa phương vào năm 2017 và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Đt, huyện ĐH, tỉnh Bạc Liêu vào ngày 08/8/2018 và đã được cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật.

Nguyên nhân ly hôn theo chị Tr xác định: thời gian đầu vợ chồng chung sống rất hạnh phúc, tuy nhiên khoảng 03 tháng nay giữa chị và anh N bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do anh N không lo làm ăn, không quan tâm lo lắng cho vợ, con; do vợ chồng chị không có tiền đưa cho mẹ chồng để chi cho sinh hoạt hàng ngày nên mẹ chồng chị thường xuyên có những lời lẽ khó khăn với chị. Hiện chị và anh N đã sống ly thân với nhau khoảng 03 tháng nay, trong khoảng thời gian vợ chồng sống xa nhau không ai quan tâm ai hay tìm biện pháp hàn gắn tình cảm vợ chồng, gia đình hai bên có hòa giải hàn gắn nhưng không có kết quả. Nay chị nhận thấy giữa chị và anh N không còn khả năng chung sống, tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được. Chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Dương Văn N.

Anh Dương Văn N xác định nguyên nhân ly hôn không đúng như chị Tr trình bày, nguyên nhân vợ chồng phát sinh mâu thuẫn là do chị Tr có nhắn tin qua lại trên mạng Zalo với người đàn ông khác, anh biết được nên không đồng ý, sau đó mẹ vợ anh qua nhà xin rước vợ anh về để dạy dỗ, anh có xuống nhà mẹ vợ để rước vợ về nhưng vợ anh không đồng ý. Nay chị Tr yêu cầu ly hôn thì anh không đồng ý vì anh còn thương vợ con, anh yêu cầu được đoàn tụ.

Về con chung: chị Trần Huyền Tr và anh Dương Văn N thống nhất xác định trong thời gian chung sống anh chị có với nhau 01 người con chung tên Dương Nhã Q, sinh ngày 23/4/2018, chị Tr xác định khi chị về nhà cha mẹ ruột ở chị có mang con theo, sau đó anh N qua thăm con và nói với chị cho ẵm con về nhà chơi vài ngày sẽ mang con qua cho chị, tuy nhiên anh N không mang con giao cho chị. Khi ly hôn chị yêu cầu được nuôi con do con còn nhỏ cần sự chăm sóc của mẹ nhiều hơn.

Anh N xác định anh đang trực tiếp nuôi con, anh cũng đảm bảo các điều kiện để nuôi dưỡng, chăm sóc con, hiện anh đang làm tại cơ sở nhôm, sắt ở xã Định Thành thu nhập ổn định mỗi tháng khoảng 6.000.000 đồng, cha mẹ anh có vuông nuôi tôm thu nhập ổn định nên có thể phụ giúp anh nuôi con. Khi ly hôn anh yêu cầu được tiếp tục nuôi con.

Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Trần Huyền Tr yêu cầu anh Dương Văn N có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng theo quy định pháp luật, cho đến khi con tròn 18 tuổi. Anh Dương Văn N đồng ý cấp dưỡng theo yêu cầu của chị Tr, nếu anh được nuôi con thì anh không yêu cầu chị Tr cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: chị Trần Huyền Tr và anh Dương Văn N xác định anh chị chung sống nhưng không có tài sản chung cũng như không có nợ ai và cũng không ai nợ vợ chồng, khi ly hôn anh chị không đặt ra yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết Tại phiên tòa sơ thẩm chị Tr xác định chị vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện đối với anh N, chị xác định không còn tài liệu, chứng cứ để cung cấp thêm.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Hải tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

Về thủ tục tố tụng: Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và của nguyên đơn, bị đơn là đúng theo quy định của pháp luật.

Về nội dung vụ án: Giữa chị Tr và anh N kết hôn hoàn toàn tự nguyện, có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật, nên hôn nhân của anh chị là hợp pháp. Nhưng do thời gian chung sống anh chị phát sinh nhiều mâu thuẫn không hàn gắn được, nay chị Tr yêu cầu ly hôn, anh N không đồng ý ly hôn mà yêu cầu được đoàn tụ, tuy nhiên trong thời gian vợ chồng phát sinh mâu thuẫn cho đến tại phiên tòa hôm nay anh N vẫn không tìm được biện pháp nào để hàn gắn tình cảm vợ chồng. Do đó đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Tr đối với anh N là có căn cứ.

Về nuôi con chung: Trong khoảng thời gian chị Tr và anh N sống ly thân 03 tháng thì người con chung tên Dương Nhã Q, sinh ngày 23/4/2018 do anh N đang trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc giáo dục, tuy nhiên theo quy định tại khoản 3 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình quy định “Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi…”, tính đến thời điểm xét xử cháu Q được khoảng 27 tháng tuổi. Do đó, buộc anh N có nghĩa vụ giao con chung lại cho chị Q nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục là có căn cứ. Anh N được quyền, nghĩa vụ đến thăm nom, chăm sóc con chung không ai được cản trở.

Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Tr yêu cầu anh N có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung là phù hợp theo quy định tại các điều 82, 83, 110 và 116 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, mức cấp dưỡng theo quy định pháp luật là 745.000 đồng/tháng cho đến khi con tròn 18 tuổi và có khả năng lao động, thời gian cấp dưỡng được tính từ tháng 7 năm 2020.

Về tài sản chung và nợ chung: không yêu cầu nên không xem xét giải quyết. Về án phí thì chị Tr và anh N phải chịu theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở phát biểu của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử xét thấy:

[1] Về thủ tục tố tụng: Chị Tr có đơn khởi kiện yêu cầu giải quyết về việc tranh chấp ly hôn với anh N. Anh N có địa chỉ cư trú tại huyện Đông Hải. Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân huyện Đông Hải.

[2] Về nội dung vụ án: chị Tr và anh N cưới nhau vào năm 2017, có tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán tại địa phương, hôn nhân hoàn toàn tự nguyện. Anh chị có đi đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã ĐT, huyện ĐH, tỉnh Bạc Liêu vào ngày 08/8/2018 và được cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật, nên hôn nhân của anh chị là hợp pháp, được pháp luật công nhận và bảo vệ.

Xét yêu cầu ly hôn của chị Tr đối với anh N thì Hội đồng đồng xét xử thấy rằng: mục đích của hôn nhân là để tạo dựng một gia đình hạnh phúc, vợ chồng phải biết yêu thương, quý trọng, chăm sóc lẫn nhau, giúp đỡ nhau cùng nhau tiến bộ. Nhưng thời gian chung sống chị Tr và anh N lại không làm được, mà còn phát sinh nhiều mẫu thuẫn không thể hàn gắn lại được. Hiện anh chị cũng đã sống ly thân với nhau, anh N có nguyện vọng được đoàn tụ, tuy nhiên từ khi vợ chồng xảy ra mâu thuẫn và sống ly thân cho đến nay, anh N không có thiện chí hay tìm biện pháp nào để hàn gắn tình cảm vợ chồng, gia đình hai bên có tổ chức hòa giải hàn gắn cho anh chị nhưng không có kết quả. T ại phiên tòa hôm nay chị Tr vẫn giữ nguyên quan điểm kiên quyết xin ly hôn với anh N và xác định nếu Tòa án giải quyết không cho chị được ly hôn với anh N thì chị cũng không trở về chung sống với anh N, điều đó chứng tỏ mâu thuẫn giữa chị Tr và anh N đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ vào Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Tr đối với anh N để mỗi người có cuộc sống mới tốt hơn là phù hợp.

Về nuôi con chung: chị Tr và anh N thống nhất xác định trong thời gian chung sống vợ chồng có 01 người con chung tên Dương Nhã Q, sinh ngày 23/4/2018, hiện đang sống với anh N. Khi ly hôn chị Tr và anh N đều có nguyện vọng được nuôi con. Chị Tr yêu cầu được nuôi con do con còn nhỏ, khi chị về nhà cha mẹ ruột ở thì chị có mang con theo, sau đó anh N qua thăm con và nói cho anh mang con về nhà chơi vài ngày sẽ mang con giao lại cho chị, tuy nhiên anh N không mang con giao trả cho chị, do con còn nhỏ cần sự chăm sóc của mẹ nhiều hơn, anh N không đồng ý giao con cho chị Tr nuôi do anh có đủ điều kiện nuôi con, có nghề nghiệp thu nhập ổn định mỗi tháng khoảng 6.000.000 đồng, cha mẹ anh có vuông nuôi tôm thu nhập ổn định nên có thể phụ giúp anh nuôi con. Hội đồng xét xử xét thấy khi quyết định giao con cho người nào trực tiếp nuôi con khi ly hôn thì phải xem xét mọi mặt để đảm bảo sự phát triển về vật chất lẫn tinh thần của con, chị Tr và anh N xác định trong khoảng thời gian vợ chồng sống xa nhau thì anh N là người trực tiếp nuôi con. Tuy nhiên, theo quy định tại khoản 3 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình quy định “Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi…”, tính đến thời điểm xét xử cháu Q được khoảng 27 tháng tuổi. Từ những nhận định trên Hội đồng xét xử xét thấy buộc anh N có nghĩa vụ giao con chung lại cho chị Q nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục là có căn cứ.

Anh Dương Văn N được quyền, nghĩa vụ đến thăm nom, chăm sóc con chung không ai được cản trở Về cấp dưỡng nuôi con: chị Trần Huyền Tr yêu cầu anh Dương Văn N cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng theo quy định pháp luật là 745.000 đồng. Hội đồng xét xử xét thấy hiện tại anh N có nghề nghiệp và thu nhập ổn định mỗi tháng khoảng 6.000.000 đồng; theo quy định tại các Điều 82, 83, 110 và 116 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 thì chị Tr có quyền yêu cầu anh N cấp dưỡng nuôi con theo quy định pháp luật, đây thể hiện trách nhiệm làm cha, mẹ đối với con chưa thành niên; do đó, việc chị Tr yêu cầu anh N cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng là 745.000 đồng là phù hợp quy định pháp luật, từ đó cần buộc anh N cấp dưỡng nuôi con hàng tháng là 745.000 đồng cho đến khi con tròn 18 tuổi và có khả năng lao động như ý kiến đại diện Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp quy định pháp luật Về tài sản chung và nợ chung: chị Trần Huyền Tr và anh Dương Văn N xác định anh chị chung sống nhưng không có tài sản chung cũng như không có nợ ai và cũng không ai nợ vợ chồng, khi ly hôn anh chị không đặt ra yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết Án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm chị Tr, anh N phải chịu theo quy định của pháp luật.

Quan điểm của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa là phù hợp, được Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận.

Vì các lẽ nêu trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 2 Điều 482 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ vào các Điều 51, 53, 56, 58, 81, 82, 83, 84, 110 và 116 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1/. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Trần Huyền Tr.

Xử cho chị Trần Huyền Tr được ly hôn với anh Dương Văn N.

2/.Về nuôi con chung: buộc anh Dương Văn N có nghĩa vụ giao người con chung tên Dương Nhã Q, sinh ngày 23/4/2018 cho chị Trần Huyền Tr nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục.

Anh Dương Văn N được quyền, nghĩa vụ đến thăm nom, chăm sóc con chung không ai được cản trở Về cấp dưỡng nuôi con: Buộc anh Dương Văn N có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi cháu Dương Nhã Q, sinh ngày 23/4/2018 mỗi tháng 745.000 đồng cho đến khi cháu Q tròn 18 tuổi và có khả năng lao động, thời gian cấp dưỡng được tính từ tháng 7/2020. Việc cấp dưỡng được thi hành ngay.

Về tài sản chung và nợ chung: Chị Trần Huyền Tr và anh Dương Văn N xác định anh chị chung sống nhưng không có tài sản chung cũng như không có nợ ai và cũng không ai nợ vợ chồng, khi ly hôn anh chị không đặt ra yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết

4/. Về án phí: Chị Trần Huyền Tr phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm 300.000 đồng nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu số 0007620 ngày 15 tháng 5 năm 2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đông Hải.

Về án phí cấp dưỡng nuôi con: Buộc anh Dương Văn N phải nộp 300.000 đồng tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đông Hải.

Án xử sơ thẩm công khai báo cho chị Trần Huyền Tr và anh Dương Văn N được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

181
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 57/2020/HNGĐ-ST ngày 08/07/2020 về tranh chấp yêu cầu ly hôn và nuôi con chung

Số hiệu:57/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đông Hải - Bạc Liêu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 08/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;