TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRỰC NINH, TỈNH NAM ĐỊNH
BẢN ÁN 57/2019/HS-ST NGÀY 14/11/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 14 tháng 11 năm 2019 tại Trụ sở TAND huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 54/2019/TLST-HS ngày 30 tháng 10 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 54/2019/QĐXXST - HS ngày 04 tháng 11 năm 2019, đối với bị cáo:
Vũ Ngọc D - Sinh năm: 1997 tại tỉnh Nam Định Nơi đăng ký HKTT: Xã P, huyện T, tỉnh Nam Định; Nơi cư trú: Thôn C, xã P, huyện T, tỉnh Nam Định; Nghề nghiệp: Lái xe; Trình độ văn hóa: 11/12; Dân tộc: Kinh: Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Con ông: Vũ Quang H; Con bà: Vũ Thị T; Có vợ là Phạm Thị N: Có 01 con sinh năm 2018.
Tiền án, tiền sự: Không Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 01/10/2019 đến ngày 03/10/2019 và bị tạm giam từ ngày 03/10/2019 đến nay. Có mặt .
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 23h30' 30/9/2019 D đi xe máy Dream BKS: 18P7 - 0830 mượn của anh Vũ Ngọc C SN: 1993 ở cùng thôn C, xã P, huyện T đến khu vực chân cầu Lạc Quần thuộc xã Việt Hùng, huyện Trực Ninh nhìn thấy phía bên trái đường QL21B có một người đàn ông không quen biết khoảng trên 40 tuổi đang ngồi trên xe máy. Nghĩ người đàn ông này có bán ma túy, D đi xe máy lại gần người đàn ông này nói: “Anh để em ba trăm đá”. Hiểu ý D hỏi mua ma túy, Người đàn ông trên đồng ý. D lấy 300.000đ đưa cho người đàn ông trên. Người này nhận tiền và lấy từ trong người ra một gói ma túy đá gói trong túi nilon đưa cho D. D cầm gói ma túy đá cất vào trong túi quần rồi quay xe đi về nhà để sử dụng. Khi về đến nhà D để xe máy ở ngoài cổng rồi đi vào trong nhà, lên phòng ngủ của 2 vợ chồng D tại tầng 2. Lúc này vợ D đang ngủ, D lén lấy dụng cụ sử dụng ma túy đá (là 1 cóong bằng thủy tinh nối với một chai nước lọc) đem ra ngoài ban công tầng 2. D lấy ra 1 phần ma túy đá trong gói ma túy vừa mua được vào trong đầu cóong hơ lửa để sử dụng. Đang sử dụng thì D nghe thấy tiếng động trong nhà. D sợ bị người nhà phát hiện nên đã cất gói ma túy đá còn lại vào trong túi quần phía trước bên trái đang mặc rồi rút đoạn cóong còn chứa ma túy đá ở đầu cóong đang sử dụng dở cho vào trong túi nilon cầm theo cả chai nước lọc, bật lửa đi xuống nhà, ra đường. D để chai nước lọc ở giá để đồ khung giữa xe máy và treo túi đựng cóong ở móc treo giá để đồ rồi điều khiển xe máy mượn của anh C đi lên TT Cổ Lễ để tìm nhà nghỉ để tiếp tục sử dụng ma túy. Khi D điều khiển xe máy đến khu vực đường QL21B thuộc TDP Trần Phú, TT Cổ Lễ thì bị lực lượng công an phát hiện bắt quả tang hồi 0 giờ 20 phút ngày 01/10/2019.
Vật chứng thu giữ gồm:
+ D đã tự giác giao nộp 01 (một) gói ma túy cất giấu tại túi quần, D khai nhận đây là ma túy đá mua về cất giấu sử dụng, được cho vào bì thư niêm phong ký hiệu M1 và 01 (một) đoạn ống thủy tinh dài 5cm, một đầu uốn cong nối với một hình cầu hở đường kính 1cm, bên trong hình cầu hở có chứa chất rắn dạng tinh thể màu trắng, D khai là ma túy đá cất giấu để sử dụng, được cho vào bì thư niêm phong ký hiệu M2.
+ Ngoài ra lực lượng Công an còn thu giữ của D 01 (một) điện thoại Iphone 5 và 01 (một) xe máy Dream BKS 18P7 – 0830.
Bản giám định số 923/GĐKTHS ngày 03/10/2019 của Phòng kĩ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định kết luận: Mẫu chất rắn dạng tinh thể màu trắng trong 02 (hai) phong bì được niêm phong ký hiệu M1 và M2 gửi giám định đều là ma tuý. Loại ma tuý Methaphetamine. Khối lượng mẫu M1: 0,227gam (Không phẩy hai trăm hai mươi bảy gam); khối lượng mẫu M2: 0,328gam (Không phẩy ba trăm hai mươi tám gam). Tổng khối lượng mẫu M1 và M2 là 0,555gam (Không phẩy năm trăm năm mươi năm gam) (đã trừ bì).
Tại phiên tòa: Bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội nêu trên.
Cáo trạng số 55/CT-VKS-KSĐT ngày 29 tháng 10 năm 2019 của VKSND huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định đã truy tố bị cáo Vũ Ngọc D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS. Đại diện VKSND huyện Trực Ninh vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo theo tội danh và điều luật đã viện dẫn tại bản Cáo trạng nêu trên và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Vũ Ngọc D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.
Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, Điều 38; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, BLHS, xử phạt Vũ Ngọc D từ 12 - 15 tháng tù.
Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 BLHS; điểm a khoản 2 Điều 106 BLHS: Tịch thu tiêu huỷ toàn bộ số Methamphetamine đã thu giữ trong quá trình điều tra còn lại sau giám định; 01 đoạn ống thủy tinh.
Lời nói sau cùng bị cáo đã thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải và xin HĐXX giảm nhẹ một phần hình phạt để bị cáo sớm được đoàn tụ cùng gia đình, cải tạo thành công dân có ích cho xã hội.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan CSĐT, VKSND huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định: Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo, những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.
Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng thuộc Cơ quan CSĐT, VKSND huyện Trực Ninh đã thực hiện trong quá trình điều tra, truy tố vụ án đều hợp pháp.
[2] Hành vi của bị cáo là hành vi nguy hiểm cho xã hội bởi lẽ trực tiếp xâm hại tới trật tự quản lý độc quyền của Nhà nước về ma tuý - là quan hệ xã hội thuộc khách thể đã được BLHS ghi nhận và bảo vệ.
Bị cáo thừa nhận vật chứng mà Cơ quan CSĐT đã thu giữ của bị cáo là ma túy (Methamphetamine), bị cáo vừa mua,cất giấu nhằm mục đích sử dụng.
Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các lời khai tại Cơ quan điều tra.
Ngoài lời khai nhận của bị cáo, hành vi phạm tội của bị cáo còn được chứng minh bằng những chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án như: Biên bản bắt giữ người có hành vi phạm tội quả tang; Biên bản ghi lời khai người làm chứng; Kết luận giám định.
Từ những chứng cứ nêu trên - HĐXX nhận thấy có đủ cơ sở để kết luận: Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy (Methamphetamine) vào ngày 30 tháng 9 năm 2019 của bị cáo Vũ Ngọc D đã có đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” - Tội danh và hình phạt được quy định tại Điều 249 BLHS. Ma tuý là một trong nguyên nhân phát sinh tình hình tội phạm, trực tiếp ảnh hưởng tới sức khoẻ, kinh tế của bản thân, của gia đình bị cáo và của toàn xã hội, là tệ nạn đã và đang bị toàn xã hội lên án mạnh mẽ. Chính vì thế Nhà nước - thông qua hệ thống pháp luật đã nghiêm cấm hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý. Khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo đã nhận thức được việc tàng trữ trái phép chất ma tuý là hành vi vi phạm pháp luật nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện.
Vì vậy, để đảm bảo trật tự pháp luật, phòng ngừa chung tình hình tội phạm, việc áp dụng biện pháp trách nhiệm hình sự đối với bị cáo là điều cần thiết.
Do vậy việc VKSND huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định truy tố bị cáo về hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy” tại bản Cáo trạng số 55/QĐ - KSĐT ngày 29 tháng 10 năm 2019, là có căn cứ, đúng pháp luật.
Hành vi phạm tội của bị cáo đã bị các cơ quan tiến hành Tố tụng hình sự huyện Trực Ninh xác định là vụ án được giải quyết theo trình tự án trọng điểm.
Xét tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội do bị cáo đã gây ra, xét nhân thân của bị cáo, HĐXX thấy cần thiết phải áp dụng hình phạt tương đối nghiêm khắc, tiếp tục cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian mới đảm bảo giáo dục, cải tạo bị cáo thành công dân có ích cho xã hội và đảm bảo tác dụng giáo dục phòng ngừa chung tình hình tội phạm.
[3] Về tình tiết tăng nặng TNHS: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng TNHS nào
[4] Về tình tiết giảm nhẹ TNHS: Khi quyết định hình phạt cũng cần cấn nhắc tới tình tiết: Bị cáo trong quá trình điều tra cũng như tại phiên toà đã thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải; hoàn cảnh gia đình khó khăn ( có xác nhận của chính quyền địa phương), bị cáo tuổi đời còn trẻ cần tạo điều kiện cho bị cáo cải tạo thành công dân có ích - Để giảm nhẹ 1 phần hình phạt cho bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS để vừa thể hiện tính nhân đạo, công bằng của pháp luật XHCN, vừa đảm bảo tác dụng giáo dục cải tạo bị cáo.
[5] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo tàng trữ ma túy mục đích để sử dụng HĐXX thấy không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[6] Về vật chứng của vụ án: Số Methamphetamine đã thu giữ trong quá trình điều tra còn lại sau giám định, các dụng cụ để sử dụng ma túy là vật Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành nên tịch thu tiêu hủy.
Đối với chiếc xe máy BKS 18P7-0830, sau khi xác minh là xe của anh Vũ Ngọc C. Anh C không biết D sử dụng để đi mua ma túy, CQĐT đã trả lại cho anh C.
Đối với chiếc điện thoại Iphone5 bị cáo không sử dụng vào việc phạm tội.
CQĐT đã trả lại cho ông Vũ Quang H là bố D theo đề nghị của D.
Xét thấy việc xử lý vật chứng của CQCSĐT là đúng quy định của pháp luật nên không xem xét.
[7] Đối với người đàn ông không quen biết mà D khai đã bán ma túy tại khu vực chân cầu Lạc Quần thuộc xã Việt Hùng, huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định. CQĐT đã tiến hành xác minh nhưng không xác định được là ai để xử lý.
[8] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự : Tuyên bố bị cáo Vũ Ngọc D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.
Xử phạt Vũ Ngọc D 12 (Mười hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 01 tháng 10 năm 2019.
2. Vật chứng: Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 47 BLHS; điểm c khoản 2 Điều 106 BLTTHS:
Tuyên tịch thu tiêu huỷ toàn bộ số Methamphetamine thu của bị cáo đã thu giữ của bị cáo Vũ Ngọc D trong quá trình điều tra còn lại sau giám định đựng trong 01 bì thư số 923/GĐKTHS của Công an tỉnh Nam Định; 01 ống thủy tinh.
(Vật chứng trên đây có đặc điểm như biên bản bàn giao giữa CQCSĐT Công an huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định với Chi cục Thi hành án dân sự huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định ngày 05 tháng 11 năm 2019).
3. Án phí Hình sự sơ thẩm: Căn cứ vào khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 BLTTHS, Nghị quyết 326/2016/UBTVQH về án phí, lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Vũ Ngọc D phải nộp 200.000 đồng.
Bị cáo Vũ Ngọc D có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày - kể từ ngày tuyên án.
Trong trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 57/2019/HS-ST ngày 14/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 57/2019/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Trực Ninh - Nam Định |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 14/11/2019 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về