Bản án 57/2018/HSST ngày 21/05/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Y, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 57/2018/HSST NGÀY 21/05/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 21 tháng 5 năm 2018, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Y, tỉnh Bắc Ninh mở phiên toà để xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 53/2018/HSST ngày 19/4/2018, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 58/2018/QĐXXST-HS ngày 08/5/2018 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Đức Ph, sinh năm 1985. Nơi cư trú: Thôn R, xã Ph, thị xã T, tỉnh Bắc Ninh. Nghề nghiệp: Không nghề nghiệp; trình độ học vấn: Lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Đức Tr và bà Nguyễn Thị X; vợ: Nguyễn Thị T; có 01 con sinh năm 2014. Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 12/02/2018 đến nay tại Trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Ninh. Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 09 giờ 45 phút ngày 12/02/2018, tại cửa nhà nghỉ TĐ ở thôn Th, xã Đ, huyện Y, tỉnh Bắc Ninh, Công an huyện Y phối hợp với Công an xã Đ bắt quả tang Nguyễn Đức Ph đang có hành vi cất giữ trái phép 01 túi nilon màu trắng, bên trong chứa các hạt tinh thể màu trắng và 01 viên nén hình tròn màu hồng trong lòng giầy chân bên phải của Ph, Ph khai đó là ma túy đá và ma túy ngựa vừa mua về để sử dụng.

Vật chứng thu giữ gồm: 01 túi nilon màu trắng, bên trong chứa các hạt tinh thể màu trắng và 01 viên nén hình tròn màu hồng.

Tại bản kết luận giám định số 292/KLGĐMT-PC54 ngày 12/02/2018 của Phòng KTHS Công an tỉnh Bắc Ninh kết luận: Các hạt tinh thể màu trắng bên trong 01 túi nilon màu trắng có khối lượng 0,1164 gam; là: ma túy; loại ma túy: Methamphetamine; 01 viên nén hình tròn màu hồng bên trong 01 túi nilon màu trắng có khối lượng 0,0936 gam; là: ma túy; loại ma túy: Methamphetamine.

Tại Cáo trạng số 50/CTr -VKSYP ngày 18/4/2018 của Viện trưởng VKSND huyện Y, tỉnh Bắc Ninh đã truy tố Nguyễn Đức Ph về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự (BLHS).

Tại phiên toà, Nguyễn Đức Ph thừa nhận Cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố hành vi phạm tội của bị cáo là đúng và khai nhận: Ph không nghiện và cũng chưa sử dụng ma túy nhưng đã chứng kiến bạn bè sử dụng. Buổi sáng ngày 12/02/2018 Ph đang ở nhà thì có người bạn xã hội rủ sử dụng ma túy nên Ph bắt xe taxi của một người đàn ông không quen biết từ thôn R, xã Ph, thị xã T, tỉnh Bắc Ninh sang huyện Y, tỉnh Bắc Ninh để chơi. Ph đi đến khu vực dốc đường tầu thuộc địa phận phường Đ, thị xã T thì xuống đi bộ tìm người để mua ma túy sử dụng. Tại đây Ph gặp một người đàn ông không quen biết, Ph hỏi mua và đưa 300.000 đồng, người đàn ông đó đưa cho Ph 01 gói nilon màu trắng bên trong chứa các hạt tinh thể màu trắng và 01 viên nén hình tròn màu hồng, Ph cầm gói ma túy cho vào lòng giầy chân bên phải rồi xỏ chân vào giầy. Sau đó, Ph bắt taxi đến nhà nghỉ TĐ ở thôn Th, xã Đô, huyện Y, tỉnh Bắc Ninh để vào nhà nghỉ sử dụng ma túy. Khi Ph đi vào đến cửa nhà nghỉ TĐ thì bị lực lượng công an kiểm tra phát hiện và thu giữ tại lòng giầy bên chân phải Ph đang đi 01 gói nilon màu trắng bên trong chứa các hạt tinh thể màu trắng và 01 viên nén hình tròn màu hồng mà Ph mới mua. Ngoài ra còn thu giữ của Ph 01 điện thoại Samsung J7 mầu trắng, chiếc điện thoại đó Ph chỉ dùng cho công việc và liên lạc gia đình và đã được cơ quan điều tra (CQĐT) trả lại.

Anh Lương Anh D và anh Nguyễn Văn Tr - Người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa nhưng theo lời khai tại CQĐT có trong hồ sơ thể hiện: Anh D là quản lý nhà nghỉ TĐ, còn anh Tr có việc gần đó. Khoảng 09 giờ 45 phút ngày 12/02/2018, anh D và anh Tr có chứng kiến việc lực lượng công an tiến hành kiểm tra Nguyễn Đức Ph và thấy lực lượng công an thu giữ tại lòng giầy bên chân phải Ph đang đi 01 gói nhỏ bằng nilon bên trong chứa các hạt tinh thể màu trắng và 01 viên nén hình tròn mầu hồng. Ph khai đó là ma túy đá và ma túy ngựa mới mua để sử dụng. Lực lượng công an niêm phong túi nilon đó và đưa Ph về trụ sở giải quyết.

Đại diện VKSND huyện Y thực hành quyền công tố tại phiên toà đã khẳng định: Vào khoảng 9 giờ 45 phút ngày 12/02/2018 Nguyễn Đức Ph đã có hành vi cất giữ trái phép 0,2100 gam Methamphetamine nên đã giữ nguyên bản Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX) tuyên bố Nguyễn Đức Ph phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Sau khi phân tích tính chất vụ án, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cũng như nhân thân của bị cáo đã đề nghị HĐXX áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 47 BLHS; Điều 106 BLTTHS tuyên phạt Nguyễn Đức Ph từ 12-14 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về vật chứng: Đề nghị tịch thu tiêu huỷ số ma tuý còn lại sau giám định. Bị cáo không có ý kiến tranh luận.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Xin HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, bị cáo tại phiên toà.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra taị phiên toà, phù hợp với kết quả tranh luận tại phiên toà thể hiện: Khoảng 09 giờ 45 phút ngày 12/02/2018 tại cửa nhà nghỉ TĐ ở thôn Th, xã Đ, huyện Y, tỉnh Bắc Ninh, Nguyễn Đức Ph đã có hành vi cất giữ trái phép 0,2100 gam Methamphetamine để sử dụng. Do vậy đại diện VKSND huyện Y thực hành quyền công tố tại phiên toà đề nghị HĐXX tuyên bố bị cáo phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” là có căn cứ, đúng pháp luật.

Bị cáo phạm tội không phải có tổ chức và khối lượng cất giữ trái phép là 0,2100 gam Methamphetamine để sử dụng nên hành vi của bị cáo đã phạm vào khoản điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS.

Xét tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội do hành vi phạm tội của bị cáo thì thấy: Hành vi của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma tuý, xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội. Do vậy hành vi của bị cáo cần được xử lý nghiêm nhằm giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

Không có tình tiết tăng nặng đối với bị cáo.

Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo từ trước đến nay chưa có sai phạm gì, sau khi phạm tội đã thành khẩn khai báo. Đây là tình tiết giảm nhẹ được qui định tại điểm s khoản 1 điều 51 BLHS nên cũng cần xem xét giảm nhẹ cho bị cáo khi quyết định hình phạt.

Căn cứ tính chất của vụ án thấy cần buộc bị cáo cách ly xã hội một thời gian mới đủ điều kiện cải tạo và giáo dục.

Bị cáo không có tài sản riêng nên không cần thiết áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

*Về nguồn gốc số ma túy: Ph khai mua của người thanh niên ở khu vực dốc đường tầu thuộc địa phận phường Đ, thị xã T nhưng không biết tên, tuổi cũng như địa chỉ cụ thể của người thanh niên đó nên CQĐT không đủ căn cứ xác minh làm rõ.

Đối với người đàn ông lái taxi chở Ph đến huyện Y, khi đi Ph không nói với người đàn ông mục đích đi để sử dụng ma túy nên CQĐT công an không đề cập xử lý là phù hợp.

*Về vật chứng: CQĐT thu giữ 0,2100 gam Methamphetamine, qua giám định khối lượng còn lại sau giám định là 0,0942 gam. Đây là vật liên quan trực tiếp đến hành vi phạm tội, giá trị sử dụng không có nên cần tịch thu tiêu huỷ.

Bị cáo phải chịu án phí theo luật định.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Nguyễn Đức Ph phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 47 BLHS; Điều 106; Điều 136; Điều 329 BLTTHS; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội qui định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án; Điều 26 Luật thi hành án dân sự (LTHADS).

Phạt: Nguyễn Đức Ph 12 (Mười hai) tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 12/02/2018. Tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án (21/5/2018) theo Quyết định tạm giam của Hội đồng xét xử.

*Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 0,0942 gam Methamphetamine còn lại sau giám định.

*Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người phải thi hành án có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7 và 9 LTHADS. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 LTHADS.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

176
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 57/2018/HSST ngày 21/05/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:57/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Yên Phong - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/05/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;