Bản án 57/2018/HS-ST ngày 19/11/2018 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ GẠO, TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 57/2018/HS-ST NGÀY 19/11/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 19 tháng 11 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số:61/TLST-HS ngày 23 tháng 10 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 62/2018/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 11 năm 2018 đối với bị cáo:

Ngô Hoàng T (Mão), sinh năm 1994 tại Tiền Giang; Nơi cư trú: Ấp T, xã N, huyện T, tỉnh Tiền Giang; nghề nghiệp: không; trình độ văn hoá: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Ngô Minh H sinh năm 1974 và bà Phan Thị Bé H sinh năm 1973; vợ Nguyễn Thị Trúc L sinh năm 1996 (ly hôn năm 2016); con Ngô Thị Kim Y sinh năm 2011; tiền án: 01 lần. Tại Bản án số 62/2017/HSST ngày 23-6-2017 của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Tiền Giang xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; tiền sự: không. Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 04-7-2018, tạm giam ngày 13-7-2018 cho đến nay; bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Lê Xuân Tr- sinh năm 1977; (có mặt)

Trú tại: 229 P, Phường S, quận B, TP Hồ Chí Minh;

Chỗ ở hiện nay: 241/28/19 S, Phường B, quận V, TP Hồ Chí Minh;

- Người có quy ền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Ngô Lê H- sinh năm 1970; (vắng mặt)

Trú tại: 241/28/19 S, Phường B, quận V, TP Hồ Chí Minh;

- Người làm chứng:

1. Nguyễn Quốc Kh, sinh ngày 02-9-2004; (Có mặt)

Trú tại: ấp 1, xã H, huyện T, tỉnh Tiền Giang.

Người đại diện hợp pháp của Nguyễn Quốc Kh: Anh Nguyễn Văn Ph, sinh năm 1972 (cha ruột Kh- có mặt);

Trú tại: ấp 1, xã H, huyện T, tỉnh Tiền Giang.

2. Hồ Thanh V, sinh năm 1989; (vắng mặt)

Trú tại: Ấp L, xã N, huyện T, tỉnh Tiền Giang.

3. Trần Mộng Nh (Dão), sinh năm 1973; (vắng mặt)

Trú tại: Ấp Đ, xã N, huyện T, tỉnh Tiền Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 01 giờ ngày 18-6-2018 bị cáo rủ Nguyễn Quốc Kh đi trộm, Kh đồng ý. T điều khiển xe mô tô loại xe Dream Trung Quốc không rõ biển số chở Kh đi từ Lương Phú đến chợ Bến Tranh rồi chạy lòng vòng đến xã Hòa Tịnh, khi đến trước nhà anh Lê Văn Đ (thuộc ấp Hòa Phú, xã Hòa Tịnh) thì Kh phát hiện xe mô tô Yamaha Nouvo màu đỏ đen biển số 59S1-262.70 của anh Lê Xuân Tr đang dựng trong nhà anh Đ nên kêu T dừng xe lại. Cửa rào không khóa T và Kh vào mở cửa rào rồi T đi ra ngoài xe, Kh vào lấy trộm xe nhưng dẫn không nổi, T đi vào lấy xe dắt ra, Kh lên ngồi xe mới trộm, T điều khiển xe Dream đẩy xe trộm về nhà Trần Mộng Nh (bạn T) gửi. Tại đây T và Kh lấy số tài sản trên xe gồm 01 áo khoác nhãn hiệu Grabike màu xanh lá cây, 01 mũ bảo hiểm hiệu Grabike màu xanh lá cây, 01 mũ bảo hiểm hiệu Mobifone màu đỏ bỏ vào bao đem đến bờ kênh gần nhà của Nh. Đến sáng ngày 18-6-2018 T đến lấy xe đem đến cầu Hai Nguyên (không rõ xã nào) đục số sườn, số máy, tháo biển số xe, kính chiếu hậu bỏ xuống kênh rồi gắn biển số 62H7-9665 vào sử dụng cho đến ngày bị bắt. Sau đó T có cho Kh 200.000 đồng.

Theo Kết luận định giá số 49/BKLĐGTS của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự ngày 05-7-2018 xác định xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Nouvo 135, biển số 59S1-262.70, số máy 5P11349034, số khung P110BY, trị giá 9.695.000 đồng.

Theo Kết luận định giá số 74/BKLĐGTS của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự ngày 28-8-2018, xác định 01 áo khoác nhãn hiệu Grabike màu xanh lá cây, 01 mũ bảo hiểm hiệu Grabike màu xanh lá cây, 01 mũ bảo hiểm hiệu Mobifone màu đỏ trị giá 120.000 đồng.

Bản cáo trạng số 60/CT-VKSCG ngày 22-10-2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện G, tỉnh Tiền Giang truy tố hành vi của bị cáo Ngô Hoàng T đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015. Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo.

Đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử:

* Áp dụng khoản 1 Điều 173; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h, o khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt: Bị cáo Ngô Hoàng T từ 18 tháng – 24 tháng tù.

* Trách nhiệm bồi thường dân sự:

- Anh Lê Xuân Tr đồng ý nhận lại xe mô tô Yamaha Nouvo, không yêu cầu bị cáo bồi thường 01 áo khoác nhãn hiệu Grabike màu xanh lá cây, 01 mũ bảo hiểm hiệu Grabike màu xanh lá cây, 01 mũ bảo hiểm hiệu Mobifone màu đỏ.

Do đó đề nghị Hội đồng xét xử xem xét trả lại cho anh Tr xe mô tô Yamaha Nouvo; ghi nhận anh Tr không yêu cầu bồi thường các tài sản 01 áo khoác nhãn hiệu Grabike màu xanh lá cây, 01 mũ bảo hiểm hiệu Grabike màu xanh lá cây, 01 mũ bảo hiểm hiệu Mobifone màu đỏ.

* Vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử trả lại xe mô tô Yamaha Nouvo cho anh Tr.

Tịch thu tiêu hủy 01 biển số xe 62H7-9665.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa bị cáo Ngô Hoàng T đã khai nhận hành vi mà bị cáo đã thực hiện đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện G đã truy tố đối với bị cáo. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại, người làm chứng, vật chứng thu giữ và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó đã có cơ sở xác định vào khoảng 01 giờ ngày 18-6-2018 bị cáo cùng Nguyễn Quốc Kh đã có hành vi lấy trộm 01 xe mô tô hiệu Yamaha Nouvo có giá trị 9.695.000 đồng và các tài sản khác gồm 01 áo khoác nhãn hiệu Grabike màu xanh lá cây, 01 mũ bảo hiểm hiệu Grabike màu xanh lá cây, 01 mũ bảo hiểm hiệu Mobifone màu đỏ để trong cốp xe có giá trị 120.000 đồng.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 thì “ Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng ... thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.” Như vậy hành vi chiếm đoạt tài sản của bị cáo Ngô Hoàng T như phân tích trên, đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật sẽ bị pháp luật trừng trị nghiêm khắc, nhưng chỉ vì muốn có tiền tiêu xài không phải bỏ công sức lao động nên bị cáo bất chấp pháp luật cố ý thực hiện tội phạm.

[2] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm bất hợp pháp đến quyền sở hữu tài sản của các bị hại được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự an toàn xã hội tại địa phương. Về nhân thân: Bị cáo có 01 tiền án về tội “trộm cắp tài sản”, mới chấp hành xong vào tháng 4-2018 thì lại tiếp tục phạm tội, do đó lần phạm tội này là tái phạm, bị cáo xúi dục Nguyễn Quốc Kh thực hiện hành vi phạm tội đây là các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h,0 khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự, điều đó cho thấy ý thức rất xem thường pháp luật của bị cáo, do đó cần có mức án thật nghiêm khắc để cải tạo giáo dục bị cáo thành công dân tốt có ích cho xã hội và phòng ngừa chung. Tuy nhiên xét bị cáo thành khẩn khai báo, nên cần xem xét giảm nhẹ cho một phần hình phạt cho bị cáo theo quy định tại các điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Đối với Nguyễn Quốc Kh khi thực hiện tội phạm chưa đủ 14 tuổi nên cơ quan Cảnh sát điều tra- Công an huyện G không khởi tố là có căn cứ.

Đối với hành vi của Trần Mộng Nh, nhận giữ xe cho bị cáo nhưng không biết là tài sản do phạm tội mà có, nên không đủ căn cứ xử lý.

Đối với xe Dream bị cáo sử dụng đi trộm là của Võ Tấn Ph, hiện nay Ph bỏ địa phương đi vắng, nên chưa làm việc được. Khi nào làm việc có căn cứ sẽ xử lý sau.

[3] Lời luận tội của Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa đề nghị kết tội bị cáo theo toàn bộ nội dung cáo trạng đã truy tố và hướng giải quyết về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng là có căn cứ, nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện G, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện G, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại, không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[5] Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự và Điều 47 Bộ luật Hình sự

- Tại phiên tòa anh Lê Xuân Tr đồng ý nhận lại xe mô tô Yamaha Nouvo, nên cần trả lại cho anh Tr. Do xe mô tô Yamaha Nouvo đã bị đục số khung, số máy nên anh Tr có quyền yêu cầu Cơ quan Công an có thẩm quyền làm thủ tục đăng ký xe theo Thông tu số 15/2014/TT-BCA ngày 04-4-2014 của Bộ Công an.

- 01 biển số xe 62H7-9665 không còn giá trị sử dụng, cần tịch thu tiêu hủy.

[6] Về trách nhiệm dân sự:

- Anh Tr đồng ý nhận lại xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Nouvo 135, không yêu cầu bị cáo bồi thường giá trị xe mô tô, nên cần trả lại cho anh Tr. Đối với các tài sản trong xe gồm 01 áo khoác nhãn hiệu Grabike màu xanh lá cây, 01 mũ bảo hiểm hiệu Grabike màu xanh lá cây, 01 mũ bảo hiểm hiệu Mobifone màu, anh Tr không yêu cầu bồi thường. Nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[7] Về án phí:

Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTV Quốc hội.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Ngô Hoàng T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h, o khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Ngô Hoàng T 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 04-7-2018.

+ Xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự và Điều 47 Bộ luật Hình sự.

Tịch thu và tiêu hủy: 01 biển số xe 62H7-9665 không còn giá trị sử dụng.

Trả lại cho anh Lê Xuân Tr 01 xe mô tô hiệu Nouvo 4, số khung RLCxxx...x..... số máy 5P11-xxx0x4 (số khung, số máy bị đục), màu sơn đỏ- đen.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 26-10-2018)

+ Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Bị cáo Ngô Hoàng T phải chịu 200.000 đồng án phí Hình sự sơ thẩm.

+ Quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015.

Bị cáo, bị hại có mặt quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm; người liên quan có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết. Để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang xét xử lại theo trình tự phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

263
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 57/2018/HS-ST ngày 19/11/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:57/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chợ Gạo - Tiền Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;