Bản án 57/2018/HS-ST ngày 19/10/2018 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỸ ĐỨC – THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 57/2018/HS-ST NGÀY 19/10/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 19 tháng 10 năm 2018, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Mỹ Đức, Thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 58/2018/TLST-HS ngày 2 tháng 10 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 61/2018/QĐXXST-HS ngày 5 tháng 10 năm 2018 đối với bị cáo:

Vũ Đình H sinh năm 1990 tại Mỹ Đức – Hà Nội; nơi cư trú: Thôn VA, xã HS, huyện Mỹ Đức, Thành phố Hà Nội; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 6/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vũ Đình H và bà Trần Thị H; vợ, con: Không; tiền án: Có 01 tiền án. Tại bản án hình sự sơ thẩm số: 40/2017/HSST ngày 28/7/2017, bị Tòa án nhân dân huyện Mỹ Đức, Thành phố Hà Nội xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 05/5/2018, chưa được xóa án tích; nhân thân xấu: Tại bản án hình sự sơ thẩm số: 28/2010/HS-ST ngày 13/8/2010, bị Tòa án nhân dân huyện Krông Ana, tỉnh Đắk Lắk xử phạt 01 năm 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội:“Cố ý gây thương tích”; bị tạm giữ từ ngày 30/7/2018 đến ngày 08/8/2018 được thay đổi biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú; bị bắt tạm giam từ ngày 13/8/2018 đến nay. Có mặt.

- Người bị hại:

+ Ông Trần Văn N sinh năm 1960. Cư trú tại: Thôn T, xã HS, huyện Mỹ Đức, Thành phố Hà Nội. Vắng mặt.

+ Ông Trần Mạnh T sinh năm 1984. Cư trú tại: Thôn T, xã HS, huyện Mỹ Đức, Thành phố Hà Nội. Vắng mặt.

+ Ông Vũ Đình H sinh năm 1966. Cư trú tại: Thôn VA, xã HS, huyện Mỹ Đức, Thành phố Hà Nội. Vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Bà Nguyễn Thị L sinh năm 1964. Cư trú tại: Thôn ĐN, xã AM, huyện Mỹ Đức, Thành phố Hà Nội. Vắng mặt.

- Người làm chứng: Anh Vũ Đình T sinh năm 2008. Người đại diện theo pháp luật: Ông Vũ Đình H sinh năm 1966. Đều cư trú tại: Thôn VA, xã HS, huyện Mỹ Đức, Thành phố Hà Nội. Đều vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

- Về hành vi phạm tội của bị cáo:

Quá trình điều tra làm rõ thời gian từ ngày 27/7/2018 đến ngày 12/8/2018, Vũ Đình H đã ba lần trộm cắp tài sản như sau:

Lần 1: Khoảng 09 giờ ngày 27/7/2018, H đi bộ từ nhà đến khu vực để máy xay xát gạo của ông Trần Văn N, quan sát không thấy người H vào vác 01 bao thóc rồi đi ra phía cổng thì bị ông Nga phát hiện quát yêu cầu bỏ lại. H sợ mang bao thóc đặt lại chỗ cũ rồi bỏ chạy. Công an tiến hành thu giữ vật chứng: 01 bao thóc Thiên Ưu trọng lượng 40kg mà H đã trộm.

Lần 2: Khoảng 07 giờ 30 phút ngày 30/7/2018, H đi xe đạp của gia đình đến trước cửa hàng tạp hóa của anh Trần Mạnh T, quan sát không thấy người H dựng xe trước cửa vào bê ra 01 thùng bia Hà Nội rồi đi về phía xã AM. H khai trên đường đi đã gặp và bán thùng bia cho một người tên là T ở xã VA, huyện ƯH được 150.000 đồng rồi ăn tiêu hết.

Lần 3: Sáng ngày 12/8/2018, H đến khu vực chuồng gà của ông Vũ Đình H (bố bị cáo) bắt trộm 03 con gà mái đang đẻ trọng lượng 05 kg cho vào bao tải rồi mang đi bán. Ông H phát hiện phóng xe máy đuổi theo nhưng H đã bỏ chạy và mang theo số gà vừa trộm cắp đến bán cho bà Nguyễn Thị L được 300.000 đồng rồi ăn tiêu hết.

- Về các vấn đề khác của vụ án:

Công an huyện Mỹ Đức ra yêu cầu định giá tài sản số 47/CSĐT ngày 01/8/2018 và yêu cầu định giá tài sản số 49/CSĐT ngày 13/8/2018.

Tại Kết luận về việc định giá tài sản trong tố tụng hình sự số 41/KL -HĐĐG ngày 02/8/2018 và Kết luận về việc định giá tài sản trong tố tụng hình sự số 43/KL- HĐĐG ngày 15/8/2018, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Mỹ Đức xác định: 01 bao thóc (loại thóc Thiên Ưu) trọng lượng 40 kg giá trị tại thời điểm là 280.000 đồng; 01 thùng bia lon Hà Nội (24 lon/thùng) giá trị tại thời điểm là 225.000 đồng; 03 con gà mái đang đẻ trọng lượng 05 kg hơi, giá trị tại thời điểm là 400.000 đồng. Tổng giá trị các tài sản là 905.000 đồng.

Ngày 30/7/2018 Công an xã HS đã trả lại cho ông Trần Văn N 01 bao thóc trọng lượng 40 kg. Ông N không yêu cầu gì về dân sự.

Ngày 13/8/2018 Công an huyện Mỹ Đức ra quyết định xử lý vật chứng số 31 trả lại cho ông Vũ Đình H 01 xe đạp đã qua sử dụng, phần khung xe sơn màu đen có nhãn hiệu Axitan. Ông H không yêu cầu gì về dân sự.

Đối với 03 con gà mái H trộm cắp của ông Vũ Đình H: H bán, bà Nguyễn Thị L mua và đã giết thịt không thu hồi lại được. Ông H không yêu cầu bị cáo pH bồi thường gì về dân sự.

Đối với thùng bia H trộm cắp của anh Trần Mạnh T: H khai bán cho một người tên T ở xã VA, huyện ỨH nhưng xác minh chưa đủ cơ sở kết luận. Anh T yêu cầu buộc bị cáo bồi thường giá trị thùng bia là 225.000 đồng.

Đối với bà Nguyễn Thị L khi mua gà không biết tài sản do trộm cắp mà có nên Cơ quan điều tra không đề cập xử lý là phù hợp.

- Về trích dẫn bản cáo trạng của Viện kiểm sát:

Cáo trạng số: 58/CT-VKS-MĐ ngày 01/10/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mỹ Đức, Thành phố Hà Nội truy tố bị cáo Vũ Đình H về tội: “Trộm cắp tài sản” theo điểm b khoản 01 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên toà bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như Cáo trạng đã truy tố.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mỹ Đức giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 01 Điều 173; điểm s khoản 01 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo Vũ Đình H từ 06 đến 09 tháng tù về tội "Trộm cắp tài sản".

Không áp dụng hình phạt tiền bổ sung đối với bị cáo.

Về trách nhiệm dân sự: Đề nghị buộc bị cáo phải bồi thường cho anh Trần Mạnh T số tiền 225.000 đồng. Bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án khác không có yêu cầu bị cáo bồi thường thiệt hại gì nên không xem xét.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị bảo lưu 01 đĩa DVD ghi hình bị cáo trộm cắp tài sản tại nhà anh Trần Mạnh Tài trong hồ sơ như một tài liệu tố tụng.

- Về lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo đã nhận thức được hành vi phạm tội là sai trái, mong Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Mỹ Đức, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Mỹ Đức, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, những người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Xét thấy, lời khai của bị cáo tại tại phiên tòa là khách quan, phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, lời khai bị hại, người làm chứng, vật chứng thu giữ và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có cơ sở vững chắc kết luận: Từ ngày 27/7/2018 đến ngày 12/8/2018, tại khu vực xã HS, huyện Mỹ Đức, Vũ Đình H đã ba lần trộm cắp tài sản của ông Trần Văn N 01 bao thóc Thiên Ưu có trọng lượng 40 kg; của anh Trần Mạnh T 01 thùng bia lon Hà Nội; của ông Vũ Đình H 03 con gà mái đang đẻ trọng lượng 05 kg. Tổng giá trị tài sản chiếm đoạt là 905.000 đồng. Tuy tài sản trộm cắp giá trị dưới hai triệu đồng nhưng bị cáo đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm nên hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của bị cáo Vũ Đình H đã cấu thành tội: “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm b khoản 01 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 như Cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mỹ Đức là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác, ảnh hưởng đến trật tự an toàn xã hội tại địa phương nên cần phải xử lý nghiêm minh.

[4] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân và hình phạt đối với bị cáo:

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Bị cáo ba lần lén lút chiếm đoạt tài sản một cách liên tục, kế tiếp nhau về mặt thời gian nhưng mỗi lần chưa đủ cấu thành tội phạm nên không bị áp dụng tình tiết tăng nặng “phạm tội 02 lần trở lên” như lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là đúng. Tuy nhiên, bị cáo có nhân thân xấu: Tại bản án hình sự sơ thẩm số: 28/2010/HS-ST ngày 13/8/2010, bị Tòa án nhân dân huyện Krông Ana, tỉnh Đắk Lắk xử phạt 01 năm 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội:“Cố ý gây thương tích”. Vì thế căn cứ tính chất hành vi và để đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm tại địa phương cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định mới đủ tác dụng trừng trị, giáo dục riêng và phòng ngừa chung. Tuy nhiên, quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã ăn năn hối cải thành khẩn khai báo nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 01 Điều 51 Bộ luật Hình sự là: “Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” để giảm nhẹ một phần hình phạt nhằm đảm bảo nguyên tắc nhân đạo của pháp luật.

[5] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo hoàn cảnh kinh tế khó khăn nên không áp dụng hình phạt tiền bổ sung đối với bị cáo.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Ghi nhận các bị hại là ông Trần Văn N, ông Vũ Đình H đã nhận lại đủ tài sản bị chiếm đoạt không yêu cầu gì về dân sự. Về việc anh Trần Mạnh Tài yêu cầu bị cáo bồi thường 01 thùng bia Hà Nội thấy rằng: Yêu cầu của anh Tài là phù hợp nên được Hội đồng xét xử chấp nhận, buộc bị cáo pH bồi thường cho anh Tài số tiền là 250.000 đồng.

[7] Về xử lý vật chứng: 01 đĩa DVD ghi hình bị cáo trộm cắp tài sản tại gia đình anh Trần Mạnh Tài cần bảo lưu trong hò sơ như một tài liệu tố tụng.

[8] Về án phí: Bị cáo pH chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Vũ Đình H phạm tội:“Trộm cắp tài sản”.

2. Áp dụng: Điểm b khoản 01 Điều 173; điểm s khoản 01 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015. Xử phạt:

Vũ Đình H: 09 (chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giam là ngày 13/8/2018, được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 30/7/2018 đến ngày 8/8/2018.

Miễn hình phạt tiền bổ sung đối với bị cáo.

3. Về trách nhiệm dân sự:

- Ghi nhận các bị hại là ông Trần Văn N đã nhận lại: 01 bao thóc trọng lượng 40 kg; ông Vũ Đình H đã nhận lại: 01 xe đạp đã qua sử dụng, phần khung xe sơn màu đen trên khung có nhãn hiệu Axitan. Ông N, ông H không yêu cầu bị cáo bồi thường thiệt hại gì về dân sự.

- Áp dụng Áp dụng Điều 48 Bộ luật Hình sự năm 2015; Điều 30 Bộ luật tố tụng hình sự; các Điều 468, 584, 585, 586 và Điều 589 Bộ luật Dân sự năm 2015: Buộc bị cáo Vũ Đình H phải bồi thường trả anh Trần Mạnh T số tiền 225.000 (Hai trăm hai mươi lăm nghìn) đồng.

Sau khi Bản án có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án (Đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bị cáo còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất bằng 50% mức lãi suất giới hạn quy định tại khoản 01 Điều 468 Bộ luật Dân sự 2015 tương ứng với thời gian chậm thi hành án.

4. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47, Điều 48 Bộ luật Hình sự năm 2015 và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, tuyên: Bảo lưu 01 đĩa DVD ghi lại hình ảnh bị cáo trộm cắp tài sản như một tài liệu tố tụng trong hồ sơ vụ án.

5. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Vũ Đình H phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm và 300.000 (ba trăm nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm.

6. Về quyền kháng cáo: Áp dụng các Điều 331 và 333 Bộ luật Tố tụng hình sự: Những người tham gia tố tụng có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án đối với bị cáo; kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày niêm yết bản án đối với các bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án.

(Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án chỉ có quyền kháng cáo về những vấn đề liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình)

Trường hợp Bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 02 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 06, 07 và 09 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

253
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 57/2018/HS-ST ngày 19/10/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:57/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mỹ Đức - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;