Bản án 57/2018/HS-ST ngày 15/01/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐIỆN BIÊN, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 57/2018/HS-ST NGÀY 15/01/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 15 tháng 01 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 65/2017/TLST- HS ngày 29 tháng 12 năm 2017 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 61/2018/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 01 năm 2018 đối với bị cáo:

Họ và tên: Cà Văn L. Tên gọi khác: Không; sinh năm 1975. Tại: Điện Biên.

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Đội 10, xã T, huyện Đ, tỉnh Điện Biên.

Nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ học vấn: 7/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Cà Văn N và con bà: Cà Thị Ô; Bị cáo có 02 người con, con lớn sinh năm 1996, con nhỏ sinh năm 2010; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 22/8/2006 bị Tòa án nhân dân huyện Điện Biên xử phạt 28 tháng tù về tội "Mua bán trái phép chất ma túy" đã được xóa án tích; bị bắt tạm giữ, giam từ ngày 07/11/2017. Bị cáo có mặt tại phiên toà.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 19 giờ ngày 29/10/2017, Cà Văn L đang đi tại đường thuộc đội 10, xã Thanh Hưng, huyện Điện Biên thì gặp và xin được của Lò Văn H một gói hêrôin được gói ngoài bằng mảnh giấy mầu trắng, mục đích để sử dụng. Sau khi nhận gói hêrôin của H cho, L mang về nhà cất giấu dưới đệm ghế cạnh giường ngủ của gia đình. Hồi 17 giờ ngày 07/11/2017, khi L đang ở nhà thì tổ công tác Công an huyện Điện Biên vào nhà vận động giải thích L đã tự giác lấy gói hêrôin ra giao nộp.

Tại biên bản mở niêm phong xác định khối lượng ngày 07/11/2017 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Điện Biên và bản kết luận giám định số: 115/GĐ - PC54 ngày 28/11/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên đã xác định số vật chứng thu giữ của Cà Văn L có khối lượng 0,15 gam là hêrôin.

Tại bản Cáo trạng số 12/QĐ -VKS - HS ngày 28/12/2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên đã truy tố bị cáo Cà Văn L về tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý" theo Khoản 1 Điều 194/BLHS năm 1999.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Khoản 3 Điều 7; Điểm c Khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51/BLHS năm 2015; Nghị quyết 41/2017/QH 14 ngày 20/6/2017 của Quốc Hội khóa XIV. Xử phạt bị cáo Cà Văn L từ 01 năm 03 tháng đến 01 năm 06 tháng tù. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47/BLHS năm 2015; Điểm a Khoản 2 Điều 106/BLTTHS năm 2015. Tịch thu tiêu hủy 0,15 gam hêrôin (Đã trích 0,04 gam gửi giám định không hoàn lại). Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Áp dụng khoản 2 Điều 136/BLTTHS; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo không có ý kiến gì tranh luận, hoàn toàn nhất trí với bản Cáo trạng và lời luận tội của Kiểm sát viên.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Điện Biên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã xuất trình những chứng cứ phù hợp với quy định của pháp luật. Bị cáo không có ý kiến, khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Xét hành vi phạm tội của bị cáo: Ngày 29/10/2017, Bị cáo Cà Văn L đã có hành vi xin của Lò Văn H 0,15 gam hêrôin với mục đích để sử dụng cho bản thân, bị cáo cất giấu số hêrôin tại nơi ở của mình thì bị tổ công tác Công an huyện Điện Biên phát hiện và thu giữ toàn bộ vật chứng. Với khối lượng 0,15 gam hêrôin bị cáo cất giấu với mục đích để sử dụng thì hành vi đó của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý" theo khoản 1 Điều 194/BLHS năm 1999 và Điểm c Khoản 1 Điều 249/BLHS năm 2015. Bản cáo trạng truy tố bị cáo của Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên là hoàn toàn đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo được thực hiện trước 0 giờ ngày 01 tháng 01 năm 2018 nhưng tại thời điểm xét xử, Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017 đã có hiệu lực pháp luật. Theo quy đinh tai Khoan 1 Điêu 194/BLHS năm 1999 có khung hình phạt từ 02 năm tù đến 07 năm tù. Nhưng với khối lượng hêrôin bị cáo tàng trữ theo quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 249/BLHS năm 2015 có khung hình phạt từ 01 năm tù đến 05 năm tù. So với Bộ luật hình sự năm 1999 thì quy định tại Bộ luật hình sự năm 2015 có lợi cho bị cáo. Vì vậy Hội đồng xét xử căn cứ vào Khoản 3 Điều 7/BLHS năm 2015 và Điểm b Khoản 1 Điều 2 Nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc Hội; điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 đã được sửa đổi bổ sung năm 2017 để xét xử đối với hành vi phạm tội của bị cáo.

[4] Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội do lỗi cố ý trực tiếp. Hành vi của bị cáo đơn giản, chỉ do nghiện ma túy nên đã đi xin ma túy để sử dụng cho bản thân mà không có mục đích nào khác. Tuy nhiên, hành vi đó của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của nhà nước về các chất ma tuý, làm ảnh hưởng đến nền trật tự trị an, an toàn trong xã hội. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực để chịu trách nhiệm hình sự trước pháp luật.

[5] Xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thấy rằng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo Điểm s Khoản 1 Điều 51/BLHS năm 2015. Tuy nhiên, bị cáo là người có nhân thân xấu, ngày 22/8/2006 bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện Điện Biên xử phạt 28 tháng tù về tội "Mua bán trái phép chất ma túy, ngày 28/5/2008 bị cáo chấp hành xong hình phạt tù trở về địa phương, bản án đã được xóa án tính, không phải là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nhưng là tình tiết để Hội đồng xét xử xem xét khi áp dụng hình phạt đối với bị cáo.

Hội đồng xét xử xét thấy, cần phải áp dụng một hình phạt thật nghiêm khắc đối với bị cáo là hình phạt tù cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để bị cáo có điều kiện cai nghiện đồng thời để giáo dục, cải tạo bị cáo thành người công dân có ích cho gia đình và xã hội.

[6] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249/BLHS năm 2015, ngoài hình phạt chính bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung bằng hình thức phạt tiền, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Xong xét hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn, thu nhập chính từ làm ruộng ngoài ra không có nguồn thu nào khác nên không có khả năng thi hành. Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Bị cáo đã khai nguồn gốc số ma túy bị thu giữ là do bị cáo xin của Lò Văn H. Hiện Hương đã chết vào ngày 17/11/2017 nên cơ quan điều tra không có cơ sở để điều tra làm rõ được. Vì vậy Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Vật chứng: Gồm 0,15 gam hêrôin (Đã trích 0,04 gam gửi giám định không hoàn lại) cần bị tịch thu tiêu huỷ theo điểm c khoản 1 Điều 47/BLHS năm 2015; Điểm a Khoản 2 Điều 106/Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015

[7] Về án phí: Theo quy định tại khoản 2 Điều 136/BLTTHS năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Khoản 3 Điều 7; Điểm c Khoản 1 Điều 249; Điểm s Khoản 1 Điều 51/BLHS năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điểm b khoản 1 Điều 2 Nghị quyết 41/2017/QH 14 ngày 20/6/2017 của Quốc Hội khóa XIV.

1. Tuyên bố: Bị cáo Cà Văn L phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý"

2. Xử phạt bị cáo Cà Văn L 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ 07/11/2017. Tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án

3. Vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47/BLHS năm 2015; Điểm a Khoản 2 Điều 106/BLTTHS năm 2015.

Tịch thu tiêu huỷ 0,15 gam hêrôin (Đã trích 0,04 gam gửi giám định không hoàn lại)

Vật chứng đã được Công an huyện Điện Biên bàn giao sang Chi cục Thi hành án dân sự huyện Điện Biên theo biên bản bàn giao vật chứng giữa Công an huyện Điện Biên và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Điện Biên ngày 02/01/2018.

4. Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136/BLTTHS năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016  của  Ủy ban thường vụ Quốc Hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (15/01/2018).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

174
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 57/2018/HS-ST ngày 15/01/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:57/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Điện Biên - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/01/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;