Bản án 57/2018/DS-ST ngày 25/09/2018 về tranh chấp hợp đồng góp hụi

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GÒ DẦU, TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 57/2018/DS-ST NGÀY 25/09/2018 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG GÓP HỤI

Ngày 25 tháng 9 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Gò Dầu, xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 75/2018/TLST-DS ngày 13 tháng 4 năm 2018 về “Tranh chấp hợp đồng góp hụi”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 53/2018/QĐXXST-DS ngày 20 tháng 8 năm 2018 và quyết định hoãn phiên tòa số 27/2018/QĐST-DS ngày 07/9/2018, giữa các đương sự:

+ Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Nh, sinh năm 1956, (có mặt). Địa chỉ: tổ 14, ấp G, xã H, huyện G, tỉnh T.

+ Bị đơn: Bà Lê Thị Mỹ Ng, sinh năm 1962, (vắng mặt).

Nơi ĐKNKTT: số 5, ấp Đ, xã H, huyện G, tỉnh T; Tạm trú:: ấp C, xã P, huyện G, tỉnh T.

+ Người làm chứng:

1. Nguyễn Thị Bạch T, sinh năm 1973; Địa chỉ: số 32, ấp Đ, xã H, huyện G, tỉnh T, (vắng mặt).

2. Đỗ Thị Thanh X, sinh năm 1966; Địa chỉ: số 270, ấp G, xã H, huyện G, tỉnh T, (vắng mặt).

3. Hà Thị H, sinh năm 1978; Địa chỉ: số 232, ấp G, xã H, huyện G, tỉnh T, (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 13-4-2018 nguyên đơn bà Nguyễn Thị Nh trình bày:

Bà yêu cầu bà Lê Thị Mỹ Ng trả số tiền nợ tổng cộng là: 64.000.000 đồng (Sáu mươi tư triệu đồng); trong đó nợ hụi là 60.000.000 đồng, nợ vay là 4.000.000 đồng. Quá trình thu thập chứng cứ và tại phiên tòa bà xin rút lại một phần yêu cầu khởi kiện đối với số tiền nợ vay 4.000.000 đồng; bà chỉ yêu cầu bà Ng trả số tiền nợ hụi tổng cộng là: 60.000.000 đồng (Sáu mươi triệu đồng), bà không yêu cầu tính lãi suất và không yêu cầu gì khác. Cụ thể như sau:

Bà là chủ thảo hụi còn Lê Thị Mỹ Ng là hụi viên, ngày 10/10/2016 bà mở một dây hụi: 5.000.000 đồng/tháng, hụi gồm 25 phần, trong đó bà Lê Thị Mỹ Ng tham gia 01 phần hụi, đến ngày 10/10/2018 thì hụi mãn; Bà Ng tham gia hụi đến kỳ hụi thứ tư, tức là ngày 10/01/2017 bà Ng hốt hụi với số tiền là: 93.330.000 đồng (chín mươi ba triệu ba trăm ba mươi ba ngàn đồng) trừ tiền cò cho chủ thảo hụi là: 2.500.000 đồng, còn lại thực lãnh hụi là: 90.830.000 đồng, bà đã đăng hụi cho bà Ng và đã giao đủ số tiền 90.830.000 đồng (chín mươi triệu tám trăm ba mươi ngàn đồng) cho bà Ng nhận tiền xong và bà Ng có ký nhận tiền hụi trong giấy tay mà bà đã cung cấp cho Tòa án, sau khi hốt hụi xong bà Ng đóng hụi chết đầy đủ đến tháng 10/2017 thì ngưng không đóng hụi nữa, bà có đến đòi tiền hụi nhiều lần nhưng bà Ng cố tình tránh né và không tiếp tục đóng tiền hụi chết, tính đến khi mãn hụi bà Ng còn nợ lại bà là 12 kỳ hụi chết chưa đóng, tương ứng với số tiền là: 60.000.000 đồng (Sáu mươi triệu đồng). Ngoài ra bà không yêu cầu gì khác.

Bị đơn bà Lê Thị Mỹ Ng: Bà Ng đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng bà Ng vắng mặt không có lý do và cũng không cung cấp cho Tòa án văn bản ghi ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Quá trình xác minh thu thập chứng cứ đối với những người làm chứng: Hà Thị H, Nguyễn Thị Bạch T và Đỗ Thị Thanh X là những người hụi viên tham gia góp hụi trong dây hụi khui ngày 10/10/2016 do bà Nguyễn Thị Nh làm chủ thảo hụi tất cả đều trình bày và xác nhận có tên bà “Mỹ Ng” tự là Lê Thị Mỹ Ng tham gia trong dây hụi này, đã hốt hụi xong và có biết việc bà Ng còn nợ tiền hụi chết của bà Nh nhưng không biết rõ cụ thể số tiền nợ hụi là bao nhiêu.

Kiểm sát viên phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ án: Việc tuân theo pháp luật tố tụng từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký đã thực hiện đúng theo quy định pháp luật tố tụng dân sự. Người tham gia tố tụng nguyên đơn đã thực hiện đúng; riêng bị đơn không thực hiện đúng theo quy định pháp luật tố tụng dân sự.

Về nội dung vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Nh, buộc bà Lê Thị Mỹ Ng trả cho bà Nh số tiền nợ hụi là: 60.000.000 đồng (Sáu mươi triệu đồng). Ghi nhận bà Nh đã tự nguyện rút lại một phần yêu cầu khởi kiện đối với số tiền 4.000.000 đồng, ghi nhận bà Nh không yêu cầu tính lãi suất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Bị đơn bà Lê Thị Mỹ Ng đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không có lý do. Nên vụ án vẫn tiến hành xét xử theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng Dân sự.

[2] Trong quá trình thu thập chứng cứ và tại phiên Tòa hôm nay, nguyên đơn bà Nguyễn Thị Nh rút một phần yêu cầu khởi kiện đối với số tiền vay là: 4.000.000 đồng (Bốn triệu đồng). Do đó, Hội đồng xét xử đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện là phù hợp với quy định tại điểm c khoản 1 Điều 217 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[3] Về nội dung vụ án: Tại giấy kê tiền hốt hụi (giấy tay) ngày 10/01/2017, nội dung thể hiện bà Ng có nhận số tiền hốt hụi là: 90.830.000 đồng và có ký tên nhận tiền hụi của bà Nh.

Quá trình xác minh thu thập chứng cứ đối với những người làm chứng: Hà Thị H, Nguyễn Thị Bạch T và Đỗ Thị Thanh X là những người hụi viên tham gia góp hụi trong dây hụi khui ngày 10/10/2016 do bà Nguyễn Thị Nh làm chủ thảo hụi tất cả đều trình bày và xác nhận có tên bà “Mỹ Ng” tự là Lê Thị Mỹ Ng tham gia trong dây hụi này và có biết việc bà Ng còn nợ tiền hụi của bà Nh.

Bà Nh và bà Ng thỏa thuận tham gia góp hụi, chủ hụi có danh sách hụi viên, số người tham gia hụi, phần hụi, kỳ mở hụi, thể thức góp hụi và lĩnh hụi, quyền và nghĩa vụ của những người tham gia là phù hợp theo quy định của Nghị định 144/2006/NĐ-CP ngày 27/11/2006 về hụi, họ, biêu, phường.

[4] Xét yêu cầu của nguyên đơn thì thấy: Bà Nh đã cung cấp được chứng cứ chứng minh cho yêu cầu của mình là danh sách hụi viên, giấy tay nhận tiền hụi ngày 10/01/2017 do bà Lê Thị Mỹ Ng ký tên chứng minh bà Ng có tham gia góp hụi và đã nhận tiền hụi xong. Còn bà Ng đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng, nhưng bà Ng vắng mặt không có lý do và cũng không cung cấp cho Tòa án văn bản ghi ý kiến đối với yêu cầu của nguyên đơn. Như vậy có đủ cơ sở xác định bà Ng có nợ tiền hụi của bà Nh, bà Ng đã biết việc bà Nh khởi kiện yêu cầu bà trả số tiền nêu trên nhưng bà Ng cố tình vắng mặt nhằm né tránh thực hiện nghĩa vụ đối với bà Nh.

Từ những phân tích trên, xét thấy yêu cầu khởi kiện của bà Nh và đề nghị của Viện kiểm sát là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận theo quy định tại Điều 471 Bộ luật Dân sự.

Buộc bà Lê Thị Mỹ Ng phải trả lại cho bà Nguyễn Thị Nh số tiền 60.000.000 đồng (Sáu mươi triệu đồng) là phù hợp.

[5] Đối với tiền lãi suất: Bà Nh không yêu cầu, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[6] Án phí: Do chấp nhận yêu cầu của bà Nh nên bà Ng phải chịu án phí theo quy định tại khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30-12- 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 471 Bộ luật Dân sự.

Căn cứ các Điều 217, 218, 219, 227 và 273 của Bộ luật Tố tụng Dân sựNghị định 144/2006/NĐ-CP ngày 27/11/2006 về hụi, họ, biêu, phường.

Căn cứ vào khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30- 12-2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

1/ Chấp nhận yêu cầu khởi kiện về tranh chấp hợp đồng góp hụi của bà Nguyễn Thị Nh đối với bà Lê Thị Mỹ Ng.

Buộc bà Lê Thị Mỹ Ng phải trả cho bà Nguyễn Thị Nh số tiền nợ hụi là: 60.000.000 đồng (Sáu mươi triệu đồng). Ghi nhận bà Nh không yêu cầu tính lãi suất.

2/ Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Nh đối với số tiền vay là: 4.000.000 đồng (Bốn triệu đồng).

Đương sự có quyền khởi kiện lại vụ án theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

Kể từ ngày người được thi hành án bà Nguyễn Thị Nh có đơn yêu cầu thi hành án, nếu người phải thi hành án bà Lê Thị Mỹ Ng không chịu trả số tiền nêu trên, thì hàng tháng người phải thi hành án bà Ng còn phải trả cho người được thi hành án bà Nh số tiền lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015.

3/ Án phí: bà Lê Thị Mỹ Ng phải chịu 3.000.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm. Hoàn trả lại cho bà Nguyễn Thị Nh 1.600.000 đồng tiền tạm ứng án phí sơ thẩm theo biên lai thu số 0013330 ngày 13/4/2018 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Gò Dầu.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án báo cho đương sự biết có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh. Bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

308
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 57/2018/DS-ST ngày 25/09/2018 về tranh chấp hợp đồng góp hụi

Số hiệu:57/2018/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Gò Dầu - Tây Ninh
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 25/09/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;