Bản án  57/2017/HS-PT ngày 30/10/2017 về tội trộm cấp tài sản

TÒA ÁN N DÂN TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 57/2017/HS-PT NGÀY 30/10/2017 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày: 30/10/2017 tại trụ sở Toà án N dân tỉnh Sóc Trăng xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 47/2017/HSPT ngày 12/9/2017 đối với bị cáo Kim Minh H, do có kháng cáo của bị cáo Kim Minh H đối với bản án hình sự sơ thẩm  số:10/2017/HSST ngày 25/7/2017 của Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Sóc Trăng.

Bị cáo có kháng cáo: Kim Minh H (tên khác không), sinh năm: 1994; Cư trú tại: ấp A, xã A, huyện C, tỉnh Sóc Trăng; Nghề nghiệp: Làm thuê; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Trình độ văn hóa: 5/12; con ông Kim H (sống) và bà Võ Thị H1 (sống);

Anh chị em ruột có 03 người (lớn nhất sinh năm 1987, nhỏ nhất là bị cáo); Vợ: không; Tiền án: không; Tiền sự: không; Bị cáo tại ngoại. (có mặt tại phiên tòa)

Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư Lưu Văn Đằng, văn phòng luật sư Nguyễn Thy, đoàn luật sư tỉnh Hậu Giang (có mặt tại phiên tòa)

Những người dưới đây không liên quan đến kháng cáo Hội đồng xét xử phúc thẩm không triệu tập gồm: Người bị hại Trần Hoàng N; Người làm chứng Nguyễn Ngọc D, Nguyễn Thị H2, Võ Thị H1, Kim H, Nguyễn Trường G.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Kim Minh H và Trần Hoàng N có mối quan hệ là bạn bè cùng xóm và thường đi chơi chung với nhau. Vào tối ngày 21/01/2017, Kim Minh H và Trần Hoàng N cùng nhau đi chơi đến khoảng 20 giờ thì H và N trở về nhà của N để ngủ, H và N cùng ngủ chung một giường trong phòng của N. Đến khoảng 04 giờ sáng 22/01/2017, H thức dậy đi vệ sinh thì phát hiện chiếc điện thoại di động hiệu OPPO F1S của N đang sạc pin ngoài mùng cạnh chỗ ngủ, thấy N ngủ say nên H nảy sinh ý định trộm điện thoại của N bán lấy tiền tiêu xài, để thực hiện ý định trên H đến chỗ sạc điện thoại dùng tay tắt nguồn điện thoại và giấu vào trong tay áo khoác bên trái mà H đang mặc trên người và tiếp tục đi vệ sinh. Sau khi đi vệ sinh xong H quay lại giường tiếp tục ngủ chung với N. Đến khoảng 06 giờ cùng ngày, N thức dậy thì phát hiện điện thoại OPPO F1S bị mất trộm liền truy hô và tiến hành tìm kiếm nhưng không gặp.

Sau khi trộm điện thoại của N thì H đi về nhà của H và đi bộ đến nhà của ông Nguyễn Trường G ngụ cùng ấp mượn chiếc xe mô tô của G rồi H điều khiển xe mô tô đi đến cửa hàng điện thoại di động Ngọc D của bà Nguyễn Ngọc D ở thị trấn L, huyện L, tỉnh Sóc Trăng bán chiếc điện thoại di động hiệu OPPO F1S mà H đã trộm được của N giá 2.000.000 đồng, sau đó H đổ xăng xe và tiêu xài cá N hết 200.000 đồng.

Đến nay người bị hại Trần Hoàng N đã nhận lại tài sản bị mất trộm của mình là điện thoại di động nhãn hiệu OPPO F1S nên người bị hại Trần Hoàng N không yêu cầu bị cáo bồi thường gì về trách nhiệm dân sự. Đối với hành vi của bà Nguyễn Ngọc D khi mua điện thoại của Kim Minh H thì không biết đó là tài sản mà H trộm cắp mà có nên không có cơ sở để xử lý.

Tại bản kết luận định giá tài sản số: 09/2017/KL.HĐĐG, ngày 09/02/2017 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện C kết luận: 01 điện thoại di động hiệu OPPO F1S của Trần Hoàng N trong vụ mất trộm có giá trị là 3.600.000 đồng.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 10/2017/HSST ngày 25/7/2017 của Tòa án nhân dân huyện C, quyết định:

- Tuyên bố bị cáo: Kim Minh H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng: Khoản 1 Điều 138; điểm b, điểm h, điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo Kim Minh H.

Tuyên xử: Xử phạt bị cáo Kim Minh H: 06 tháng tù (sáu tháng tù). Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt đi chấp hành án.

Ngoài ra án sơ thẩm còn tuyên phần án phí và quyền kháng cáo của bị cáo và người bị hại.

Ngày 07/8/2017 bị cáo Kim Minh H kháng cáo xin được hưởng án treo. Tại phiên tòa phúc thẩm:

- Tại phiên tòa bị cáo vẫn giữ nguyên nội dung đơn kháng cáo xin được hưởng án treo.

- Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sóc Trăng giữ quyền công tố Nhà nước đề nghị Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm áp dụng Điểm b Khoản 2 Điều 248; Điểm đ Khoản 1 và Khoản 3 Điều 249 của Bộ luật Tố tụng hình sự chấp nhận kháng cáo của bị cáo là cho bị cáo hưởng án treo.

Tại phiên tòa Luật sư bào chữa cho bị cáo đề nghị hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị cáo là cho bị cáo hưởng án treo.

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa phúc thẩm, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện tài liệu, chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên; vị luật sư và bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

[1] Về tính hợp lệ của đơn kháng cáo của bị cáo:

Đơn kháng cáo của bị cáo được nộp trực tiếp cho Tòa án nhân dân huyện C ngày 07/8/2017 theo quy đinh tại khoản 1 Điều 234 Bộ luật tố tụng hình sự. Nên đơn kháng cáo của bị cáo là hợp lệ.

Do vậy, Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm chấp nhận đơn kháng cáo và xem xét giải quyết đơn kháng cáo của bị cáo theo trình tự phúc thẩm.

[2] Xét hành vi phạm tội của bị cáo vào khoảng 20 giờ ngày 21/01/2017 sau khi bị cáo cùng N đi chơi chung về H đến nhà ngủ chung trong phòng với N. Đến khoảng 04 giờ sáng ngày 22/01/2017 bị cáo đã có hành vi trộm cắp tài sản là chiếc điện thoại di động hiệu OPPO F1S của Trần Hoàng N và sau đó bị cáo đem điện thoại trộm được đến thị trấn L bán được 2 triệu đồng. Chiếc điện thoại trên trị giá tài sản theo hội đồng định giá tài sản là 3.600.000 đồng. Cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo về tội trộm cắp tài sản tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến trật tự xã hội, làm ảnh hưởng đến tình hình anh ninh trật tự xã hội ở địa phương gây bức xúc trong nhân dân và cần xử lý nghiêm trước pháp luật là cần thiết có tác dụng ngăn ngừa chung tội phạm.

[3] Xét về hình phạt thì cấp sơ thẩm tuyên phạt bị cáo 6 tháng tù là tương xứng với tính chất và hành vi phạm tội của bị cáo. Xét kháng cáo xin được hưởng hưởng án treo, thì thấy, bị cáo có nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng và bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng, sau khi phạm tội đã khắc phục hậu quả và phạm tội không có tình tiết tăng nặng thì bị cáo có đủ điều kiện được hưởng án treo theo Điều 60 Bộ luật hình sự. Nên hội đồng xét xử chấp nhận sự đề nghị của Kiểm sát Viên và người bào chữa cho bị cáo là chấp nhận kháng cáo của bị cáo là cho bị cáo hưởng án treo.

[5] Án phí Hình sự phúc thẩm bị cáo không phải chịu vì đơn kháng cáo của bị cáo được chấp nhận.

[6] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điểm b Khoản 2 Điều 248; Điểm đ Khoản 1 và Khoản 3 Điều 249 Bộ luật tố tụng hình sự.

[1] Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Kim Minh H.

Áp dụng: Khoản 1 Điều 138; các điểm b, h, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 và khoản 1, 2 Điều 60 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo Kim Minh H.

Tuyên Xử:

Xử phạt bị cáo Kim Minh H: 06 tháng tù (sáu tháng tù). Nhưng cho hưởng án treo về tội trộm cấp tài sản. Thời gian thử thách là 12 tháng kể từ ngày tuyên án ngày 30/10/2017. Giao bị cáo cho chính quyền xã A giám sát giáo dục. Gia đình bị cáo kết hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.

[2] Án phí hình sự phúc thẩm bị cáo không phải nộp.

[3] Các phần quyết định khác của quyết định bản án hình sự sơ thẩm không kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm này có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

389
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án  57/2017/HS-PT ngày 30/10/2017 về tội trộm cấp tài sản

Số hiệu:57/2017/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/10/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;