Bản án 562/2019/HS-PT ngày 25/09/2019 về tội vận chuyển trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 562/2019/HS-PT NGÀY 25/09/2019 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 25 tháng 9 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 386/2019/HSPT-TL ngày 18 tháng 7 năm 2019 đối với bị cáo Phạm Xuân C do có kháng cáo của bị cáo Phạm Xuân C đối với bản án hình sự sơ thẩm số 192/2019/HS-ST ngày 11/6/2019 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

Bị cáo có kháng cáo, không bị kháng cáo, không bị kháng nghị:

Phạm Xuân C; giới tính: nam; sinh ngày 30 tháng 9 năm 1981 tại: Thành phố Hồ Chí Minh; thường trú: 64/39A đường N, Phường 2, Quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh; nơi đã cư trú: số 50 đường 21E, khu phố 9, phường B, quận B1, Thành phố Hồ Chí Minh; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: đạo Thiên Chúa; trình độ văn hóa: 3/12; nghề nghiệp: không; con ông: Phạm Văn X và bà: Phạm Thị R; hoàn cảnh gia đình: bị cáo chưa có vợ, con; tiền án: không; tiền sự: không;

Nhân thân:

- Ngày 22/12/2000, bị Tòa án nhân dân Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 18 tháng tù về “Tội Cướp giật tài sản” nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 36 tháng kể từ ngày 22/12/2000 (Bản án số 205/HSST - Bút lục số 57- 58); Chi cục Thi hành án dân sự Quận 5 không thụ lý, thi hành bản án trên (Công văn số 1149/THADS ngày 13/6/2018 - Bút lục số 59);

- Ngày 20/8/2002, bị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 04 năm tù về “Tội Cướp giật tài sản”. Tổng hợp hình phạt trên với hình phạt 01 năm 06 tháng tù mà bị cáo chưa chấp hành theo Bản án số 205/HSST ngày 22/12/2000 của Tòa án nhân dân Quận 5, thì bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 05 năm 06 tháng tù (Bản án số 1091/HSST - BL 60-63); ngày 25/01/2007, chấp hành xong hình phạt tù (Giấy chứng nhận chấp hành xong hình phạt tù số 50/GCN của Giám thị Trại giam An Phước - BL 70); Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh chưa tiếp nhận bản án trên nên cơ quan thi hành án chưa có cơ sở để thụ lý thi hành án, chưa ra quyết định thi hành án đối với ông C và ông C cũng chưa nộp khoản tiền nào (Công văn số 7559/CTHADS-VP ngày 20/6/2018 - Bút lục 64);

- Ngày 05/02/2010, bị Tòa án nhân dân Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 04 năm tù về “Tội Cướp giật tài sản” (Bản án số 17/2010/HS-ST - Bút lục số 65-67); ngày 02/02/2013, đã chấp hành xong án phạt tù (Giấy chứng nhận chấp hành xong án phạt tù số 86/GCN-CHXHPT của Giám thị Trại giam Xuân Lộc - Bút lục số 69); ngày 09/3/2010, Phạm Xuân C đã nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm theo biên lai số 048126 của Chi Cục Thi hành án dân sự Quận 3 (Công văn số 1940/XM-CCTHADS ngày 26/6/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận 3 - Bút lục số 68);

Bị bắt, tạm giam ngày: 04/5/2018 (có mặt).

Người bào chữa chỉ định cho bị cáo: Ông Nguyễn Tuấn Lộc - Luật sư thuộc Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).

NHẬN THẤY

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 16 giờ 00 ngày 04/5/2018, tại ngã tư Điện Biên Phủ - Đường Dl, Phường 25, quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh, Phòng cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an Thành phố Hồ Chí Minh phối hợp với Công an quận Bình Thạnh bắt quả tang và thu giữ trong áo thun Phạm Xuân C đang mặc 01 túi nylon màu đen, bên trong có: 03 khối hình hộp chữ nhật bọc băng keo màu xanh đen, bên trong chứa chất bột màu trắng; 01 gói giấy bạc màu vàng bên ngoài cuốn băng keo màu đen, bên trong chứa chất tinh thể không màu.

Tại Kết luận giám định số 833/KLGĐ-H ngày 11/5/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh (BL 45) thể hiện:

- Bột màu trắng được ký hiệu mẫu m1 cần giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 1.052,01 gam, loại Heroine.

- Tinh thể không màu được ký hiệu mẫu m2 cần giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 961,08 gam, loại Methamphetamine.

Sau khi bị bắt, Phạm Xuân C khai nhận từ năm 2017, Phạm Xuân C có quen biết và nhiều lần đi giao nhận ma túy cho 01 phụ nữ tên S (qua xác minh có họ tên là Phạm Thị Thu S) và được S trả tiền công là 4.000.000 đồng/ bánh Heroine, 5.000.000 đồng/ kg ma túy đá. Vào lúc 15 giờ 00 ngày 04/5/2018, đối tượng S gọi điện thoại nói bị cáo C đến quán ăn số 31 đường T, Quận 2 nhận ma túy đem về cho S. Đến nơi, có một người thanh niên (không rõ lai lịch) đưa cho bị cáo 03 gói Heroine và 01 kg ma túy đá, bị cáo C giấu ma túy vào trong người để đem về Quận 4 đưa cho S, trên đường đi thì bị phát hiện bắt giữ.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 192/2019/HS-ST ngày 11/6/2019 Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã xử phạt bị cáo Phạm Xuân C Tử hình về “Tội Vận chuyển trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 4 Điều 250; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Bị cáo bị tạm giam từ ngày 04/5/2018. Tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.

Ngoài ra, bản án còn tuyên về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 17/6/2019 bị cáo Phạm Xuân C có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt vì hình phạt tử hình là quá nghiêm khắc, bị cáo có chỉ điểm, tố giác tội phạm và thành khẩn khai báo với cơ quan điều tra.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Phạm Xuân C vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.

Đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa nêu quan điểm: Bị cáo C vận chuyển trái phép chất ma túy bị bắt quả tang. Khối lượng vận chuyển ma túy quá lớn. Theo qui định pháp luật, cấp sơ thẩm xét xử bị cáo tử hình về tội "Vận chuyển trái phép chất ma túy" là đúng qui định pháp luật. Bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt, không có tình tiết mới. Đề nghị Hội đồng xét xử bác kháng cáo, giữ nguyên án sơ thẩm.

Người bào chữa cho bị cáo C trình bày: Thống nhất tội danh Viện kiểm sát đã trình bày. Mẹ bị cáo tham gia vào chính quyền địa phương xóa bỏ mù chữ, được tặng giấy khen. Hiện nay, mẹ bị cáo tham gia quản lý giữ gìn trật tự khu phố, được chính quyền địa phương tặng nhiều giấy khen. Mẹ bị cáo có công với đất nước. Bị cáo chỉ vận chuyển ma túy giúp, đã chỉ điểm người nhờ mình nhưng cơ quan điều tra chưa bắt được. Đề nghị Hội đồng xét xử cân nhắc giảm hình phạt cho bị cáo từ tử hình xuống chung thân.

Bị cáo C trình bày: Thống nhất ý kiến của người bào chữa. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát tham gia tranh luận: Luật sư đã thống nhất tội danh. Về các tình tiết giảm nhẹ, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét theo qui định pháp luật.

XÉT THẤY

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Phạm Xuân C thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung án sơ thẩm đã nêu. Bị cáo đã có hành vi vận chuyển ma túy từ địa chỉ số 31 đường T, Quận 2 đem về khu vực Quận 4 cho đối tượng tên S (qua xác minh có họ tên là Phạm Thị Thu S) để được trả tiền công, trên đường đi thì bị phát hiện bắt giữ.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu được, lời khai của người chứng kiến, bản kết luận giám định và các tài liệu khác có trong hồ sơ.

[3] Xét kháng cáo của bị cáo Phạm Xuân C và đề nghị của luật sư bào chữa, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận thấy:

[3.1] Về tội danh: Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Phạm Xuân C tội "Vận chuyển trái phép chất ma túy”. theo điểm b khoản 4 Điều 250 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 là đúng người, đúng tội.

[3.2] Về hình phạt: Mặc dù, tại phiên tòa, luật sư của bị cáo cung cấp thêm các giấy khen của mẹ bị cáo tại địa phương nhưng hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm hại sự quản lý độc quyền của Nhà nước đối với các chất ma tuý, gây ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ cộng đồng và trật tự trị an xã hội. Khối lượng ma túy bị cáo vận chuyển quá lớn với khối lượng ma túy thu giữ khi bắt quả tang là 1.052,01 gam Heroine và 961,08 gam Methamphetamine. Bị cáo có hợp tác với cơ quan tiến hành tố tụng trong việc xác định họ tên, nhân thân, địa chỉ của đối tượng tên S.

Tòa án cấp sơ thẩm đã cân nhắc các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo C. Hình phạt áp dụng với bị cáo là phù hợp, đúng pháp luật.

[3.3] Bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt nhưng không có cơ sở. Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên án sơ thẩm như đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa đề nghị.

Ý kiến của người bào chữa cho bị cáo không phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên không được chấp nhận.

[4] Do không được chấp nhận kháng cáo, bị cáo C phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[5] Các nội dung khác của Bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị nên có hiệu lực pháp luật.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;

 1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Phạm Xuân C. Giữ nguyên án sơ thẩm.

Áp dụng điểm b khoản 4 Điều 250; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

Xử phạt bị cáo Phạm Xuân C: Tử hình về tội "Vận chuyển trái phép chất ma túy”. Bị cáo bị tạm giam từ ngày 04/5/2018.

Tiếp tục tạm giam bị cáo theo Quyết định của Hội đồng xét xử để đảm bảo việc thi hành án.

2. Các nội dung khác trong quyết định Bản án hình sự sơ thẩm số 192/2019/HS-ST ngày 11/6/2019 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

3. Bị cáo Phạm Xuân C phải chịu án phí hình sự phúc thẩm là 200.000 đồng.

Trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày tuyên án (25/9/2019), người bị kết án Phạm Xuân C được gửi đơn lên Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam để xin ân giảm án Tử hình.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

541
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 562/2019/HS-PT ngày 25/09/2019 về tội vận chuyển trái phép chất ma túy

Số hiệu:562/2019/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;