Bản án 56/2023/HS-ST về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN M C, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 56/2023/HS-ST NGÀY 26/09/2023 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 9 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân huyện M C, Tòa án nhân dân huyện M C tiến hành mở phiên tòa xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 57/2023/HSST ngày 31 tháng 8 năm 2023. Theo quyết định đưa vụ án xét xử số: 56/2023/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 9 năm 2023 đối với bị cáo:

Họ và tên: Ly A C (tên gọi khác: Không) - Sinh năm: 1981. Tại huyện M C, tỉnh Điện Biên. Nơi cư trú: Bản Nậm P, xã M T, huyện M C, tỉnh Điện Biên. Nghề nghiệp: Nông nghiệp; Trình độ văn hóa: Không; Dân tộc: Mông; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt nam. Con ông: Ly A D - Đã chết và bà: Hừ Thị Dua – Sinh năm: 1958. Vợ: Lầu Thị M - Sinh năm: 1982 và có 06 con, con lớn nhất sinh năm 2007 con nhỏ nhất sinh năm 2017. Tiền án, Tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 08/5/2018 bị Tòa án nhân dân huyện Nậm Pồ xử phạt 24 tháng tù về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy, bị cáo đã chấp hành xong, hiện đã được xóa án tích. Ngày 22/6/2023 bị bắt về hành vi mua bán trái phép chất ma túy. Bị tạm giữ từ ngày 23/6/2023, tạm giam từ ngày 02/7/2023 đến nay bị cáo có mặt.

Người bào chữa cho bị cáo Ly A C là bà Triệu Thị H – Luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý, thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Điện Biên - Có mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Ly A S – Sinh năm: 1997.

Nơi cư trú: Bản Nậm P, xã M T, huyện M C, tỉnh Điện Biên – Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và Dễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 14 giờ ngày 21/6/2023 Ly A C điều khiển xe mô tô mang biển kiểm soát 27V1-X đi từ nhà ở bản Nậm P, xã M T, huyện M C đến bản Hô Củng, xã Chà Tở, huyện Nậm Pồ tìm mua Heroine về để sử dụng và bán kiếm lời. Tại đây C trao đổi mua được của một người đàn ông không rõ lai lịch 01 gói Heroine được gói bằng mảnh nilon màu hồng với giá 600.000 đồng rồi điều khiển xe đi về nhà. Về đến nhà C cất giấu gói Heroine vào trong ống tre đặt ngang đầu giường ngủ, sau đó nhiều lần lấy ra sử dụng số còn lại tiếp tục cất giấu như cũ. Đến khoảng 19 giờ ngày 22/6/2023 C lấy gói Heroine dùng dao nhọn chia thành hai cục, một cục gói lại như cũ cất vào ống tre, còn một cục C ngồi trên giường chia ra thành 04 cục Heroine đặt trên giấy hình chữ nhật. Một lúc sau thì có Cháng A Ch đến hỏi mua 100.000 đồng Heroine, C đồng ý cầm tiền nhưng chưa đưa Heroine cho Ch mà đi ra ngoài đi vệ sinh. Hồi 20 giờ cùng ngày, tổ công tác Công an xã M T phối hợp với Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về hình sự, kinh tế, ma tuý Công an huyện M C vào nhà phát hiện thu giữ trên giường nhà C có 04 cục Heroine để trên giấy hình chữ nhật và trong ống tre đặt ngang giường ngủ có 01 gói Heroine, tất cả tổng khối lượng 2,439 gam, C thừa nhận là Heroine của mình, lợi dụng sơ hở C bỏ chạy thoát. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và niêm phong vật chứng.

Vật chứng gồm: 2,325 gam Heroine còn lại sau khi trừ mẫu giám định; 01 mảnh nilon màu hồng; 01 mảnh giấy hình chữ nhật màu xanh đỏ trắng, một mặt có in chữ “Kẹo lạc Huyền Trang”; 01 phong bì niêm phong vật chứng ban đầu; số tiền 100.000 đồng gồm 2 tờ mỗi tờ mệnh giá 50.000 đồng có mã hiệu cụ thể OE14046242 và AV21478938; 01 con dao; 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA BLADE mang biển kiểm soát 27V1-X kèm chìa khoá xe; 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mang tên Ly A S.

Tại bản kết luận giám định số: 1047/KL-KTHS ngày 30/6/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên kết luận:

Khối lượng vật chứng thu giữ của Ly A C là 2,439 gam.

Mẫu chất bột trắng đục trích ra từ vật chứng thu giữ của Ly A C gửi giám định là chất ma tuý: Loại Heroine.

Tại bản kết luận giám định số: 1058/KL-KTHS ngày 01/7/2023 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên kết luận: 02 tờ tiền mệnh giá 50.000 đồng (năm mươi nghìn đồng) gửi giám định là tiền thật.

Tại bản cáo trạng số: 40/CT-VKSMC, ngày 30 tháng 8 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện M C, tỉnh Điện Biên đã truy tố Ly A C về tội "Mua bán trái phép chất ma túy" theo quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện M C vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Ly A C về cả tội danh và điều luật áp dụng. Đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 251; khoản 1 Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Ly A C từ 04 năm đến 04 năm 06 tháng tù về tội: Mua bán trái phép chất ma túy. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo theo khoản 5 Điều 251của Bộ luật hình sự.

Về vật chứng vụ án: Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và khoản 2, điểm a, b khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Đối với 2,325 gam Heroine còn lại sau khi trừ mẫu giám định; 01 mảnh nilon màu hồng; 01 mảnh giấy hình chữ nhật màu xanh đỏ trắng, một mặt có in chữ “Kẹo lạc Huyền Trang”; 01 con dao; 01 phong bì niêm phong vật chứng ban đầu. Là vật nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành, vật liên quan đến việc phạm tội và những vật không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

Đối với số tiền 100.000 đồng gồm 2 tờ mỗi tờ mệnh giá 50.000 đồng có mã hiệu cụ thể OE14046242 và AV21478938 là tiền do phạm tội mà có cần tịch thu sung quỹ nhà nước.

Đối với 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA BLADE mang biển kiểm soát 27V1-X kèm chìa khoá xe; 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mang tên Ly A S. Là tài sản của Ly A S, S không biết bị cáo sử dụng chiếc xe đi mua bán ma túy nên cần trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp.

Đối với người đàn ông bán ma túy cho bị cáo, do bị cáo không biết họ, tên, tuổi, địa chỉ, nên không có căn cứ để điều tra làm rõ.

Đối với anh Cháng A Ch, trú cùng bản với bị cáo vào nhà bị cáo mua ma túy của bị cáo 100.000 đồng, qua xác minh Cháng A Ch không có mặt tại địa phương nên chưa có căn cứ để xử lý Ch theo quy định của pháp luật.

Bị cáo sử dụng chiếc xe mô tô mang BKS 27V1-X của anh Ly A S đi mua ma túy. Anh S không biết nên không có căn cứ xử lý đối với Ly A S.

Về án phí: Bị cáo là người dân tộc thiểu số, sinh sống ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, tại phiên tòa bị cáo xin miễn án phí. Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12; Điều 15; Điều 21 Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, cần miễn toàn bộ án phí HSST cho bị cáo.

Người bào chữa cho bị cáo trình bày lời bào chữa, không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Đồng ý với quyết định truy tố của Viện kiểm sát về tội danh điều luật áp dụng đối với bị cáo. Tuy nhiên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo luôn thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội, không có công việc ổn định, là dân tộc thiểu số sinh sống ở vùng sâu vùng xa, nơi có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn, nhận thức pháp luật còn hạn chế, kinh tế gia đình rất khó khăn. Do đó đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội, miễn toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo, không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử, xử phạt bị cáo mức án khởi điểm như Kiểm sát viên đề nghị. Đối với chiếc xe mô tô bị cáo mượn của Ly A S để phục vụ việc đi lại, bị cáo không nói cho S biết việc bị cáo sử dụng chiếc xe đi mua ma túy, nên đề nghị trả lại chiếc xe cho Ly A S. Đối với số tiền 100.000 đồng là tiền do phạm tội mà có đề nghị tịch thu sung ngân sách nhà nước.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Ly A S trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa trình bày, chiếc xe mô tô mang BKS 27V1-X, là xe của anh. Do đường lên nhà anh phức tạp nên anh thường xuyên gửi xe tại nhà bị cáo Ly A C, việc bị cáo C sử dụng chiếc xe để đi mua bán ma túy anh không biết, nay cho anh xin lại chiếc xe mô tô đó.

Ý kiến của bị cáo tại phiên tòa giữ nguyên lời khai tại cơ quan điều tra, không có ý kiến gì thay đổi bổ sung, bị cáo xin được miễn án phí, lời nói sau cùng của bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Xét về hành vi phạm tội: Tại phiên tòa ngày hôm nay bị cáo Ly A C khai nhận toàn bộ hành vi của mình cụ thể: Ngày 21/6/2023, bị cáo lên khu vực bản Hô Củng, xã Chà Tở, huyện Nậm Pồ tìm mua ma túy, tại đây bị cáo đã trao đổi mua được của một người đàn ông không rõ lai lịch 01 gói Heroine với giá 600.000 đồng. Đến ngày 22/6/2023 bị cáo lấy gói Heroine ra chia thành 02 cục, 01 cục gói lại như cũ, 01 cục dùng dao chia thành 04 cục mục đích để bán lại kiếm lời. Cùng ngày có Cháng A Ch đến hỏi mua 100.000 đồng Heroine, bị cáo cầm tiền chưa kịp đưa Heroine cho Ch thì bị Công an huyện M C phát hiện bắt quả tang thu giữ toàn bộ số ma túy của bị cáo có khối lượng 2,439 gam Heroine. Như vậy lời nhận tội của bị cáo hoàn toàn phù hợp với vật chứng bị thu giữ và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ, cũng như quyết định truy tố của Viện kiểm sát đối với bị cáo. Tại phiên tòa bị cáo hoàn toàn đồng ý với quyết định truy tố của Viện kiểm sát, bị cáo khẳng định quyết định truy tố của Viện kiểm sát và việc đưa bị cáo ra xét xử về tội danh và điều luật áp dụng là hoàn toàn đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để khẳng định rằng hành vi của bị cáo đã phạm vào tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” được quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật hình sự.

Tại khoản 1 Điều 251 quy định:

Điều 251. Tội mua bán trái phép chất ma túy 1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm”.

[2] Xét về tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo cho thấy: Hành vi phạm tội của bị cáo là hành vi nguy hiểm cho xã hội, bởi bị cáo đã mua ma túy về chia thành nhiều gói nhỏ để sử dụng và bán kiếm lời được quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật hình sự. Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo thừa nhận rằng khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo nhận thức được ma túy là chất gây nghiện, gây độc hại cho sức khỏe con người cả về thể xác và tinh thần, tệ nạn ma túy là nguồn gốc phát sinh nhiều tệ nạn xã hội khác. Chính quyền địa phương cũng như trên phương tiện thông tin đại chúng luôn tuyên truyền về tác hại do chất ma túy gây ra cho sức khỏe C con người và Nhà nước nghiêm cấm mọi hành vi liên quan đến ma túy. Nhưng bị cáo vẫn bất chấp tất cả, coi thường pháp luật cố tình thực hiện mua ma túy về nhằm mục đích để sử dụng và bán kiếm lời trái pháp luật. Hành vi của bị cáo thuộc trường hợp nghiêm trọng, không những xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước mà còn gây ảnh hưởng rất xấu đến trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn. Do vậy cần phải xử lý thật nghiêm khắc đối với bị cáo để răn đe phòng ngừa chung đối với toàn xã hội khi ma túy vẫn đang là nguyên nhân đe dọa sự ổn định về cuộc sống cũng như về tài sản của mọi người.

Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp và là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi phạm tội của mình đã gây ra.

[3] Xét về nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Ly A C sinh ra và lớn lên được bố mẹ nuôi dậy, không đi học ở nhà lao động sản xuất phụ giúp gia đình, đến tuổi trưởng thành xây dựng gia đình riêng đã có 06 người con. Ngày 08/5/2018 bị Tòa án nhân dân huyện Nâm Pồ xử phạt 24 tháng tù về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy, bị cáo đã chấp hành xong, hiện đã được xóa án tích. Bị cáo đã từng bị Tòa án xét xử về tội liên quan đến ma túy, lẽ ra bị cáo phải lấy đó làm bài học cảnh tỉnh cho bản thân, nhưng bị cáo không làm được, để có ma túy sử dụng và kiếm tiền một cách nhanh nhất mà không phải mất mồ hôi công sức, bị cáo cố tình mua ma túy về tàng trữ để sử dụng và bán kiếm lời trái pháp luật. Như vậy bị cáo là người có nhân thân xấu. Vậy cần phải xử lý bị cáo nghiêm minh trước pháp luật. Tuy nhiên trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của BLHS, cần xem xét khi quyết định hình phạt. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 52 của Bộ luật hình sự, nhưng bị cáo là người nghiện ma túy lâu năm. Vậy khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử cần xét khối lượng ma túy bị cáo tàng trữ sử dụng và bán kiếm lời, về nhân thân, quá trình sinh sống, việc chấp hành pháp luật của bản thân bị cáo và ý kiến của bị cáo tại phiên tòa. Như vậy đề nghị của Kiểm sát viên về hình phạt là phù hợp cần được xem xét chấp nhận. Những đề nghị của người bào chữa là có căn cứ chấp nhận. Do đó cần thiết áp dụng hình phạt tù tương xứng với hành vi phạm tội để cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người công dân có ích cho gia đình và xã hội.

[4] Về hình phạt bổ sung: Tại biên bản xác minh về tài sản của gia đình bị cáo do cơ quan CSĐT Công an huyện M C xác lập, gia đình bị cáo không có tài sản gì đáng giá. Xét thấy hoàn cảnh gia đình của bị cáo gặp nhiều khó khăn, thu nhập chủ yếu đi làm ruộng, nương. Do vậy, không áp dụng hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 5 Điều 251 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo là phù hợp.

[5] Về vật chứng vụ án: Căn cứ khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và khoản 2 điểm a, b khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Đối với 2,325 gam Heroine còn lại sau khi trừ mẫu giám định; 01 mảnh nilon màu hồng; 01 mảnh giấy hình chữ nhật màu xanh đỏ trắng, một mặt có in chữ “Kẹo lạc Huyền Trang”; 01 con dao; 01 phong bì niêm phong vật chứng ban đầu. Là vật nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành là vật liên quan đến việc phạm tội và những vật không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với số tiền 100.000 đồng gồm 2 tờ mỗi tờ mệnh giá 50.000 đồng có mã hiệu cụ thể OE14046242 và AV21478938 đây là tiền do phạm tội mà có cần tịch thu sung quỹ nhà nước.

Đối với 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA BLADE mang biển kiểm soát 27V1-X. Kèm chìa khoá xe; 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mang tên Ly A S.

Là tài sản của Ly A S, S không biết bị cáo dử dụng chiếc xe đi mua bán ma túy nên cần trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp. Anh S không biết bị cáo sử dụng chiếc xe đi mua bán ma túy nên không có căn cứ xử lý đối với Ly A S. Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Đối với người đàn ông bán ma túy cho bị cáo, do bị cáo không biết họ, tên, tuổi, địa chỉ, nên không có căn cứ để điều tra làm rõ. Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Đối với anh Cháng A Ch, trú cùng bản với bị cáo vào nhà bị cáo mua ma túy của bị cáo 100.000 đồng, qua xác minh Cháng A Ch không có mặt tại địa phương nên chưa có căn cứ để xử lý Ch theo quy định của pháp luật. Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[6] Về án phí: Bị cáo là người dân tộc thiểu số, sinh sống ở vùng có điều kiện kinh tế - Xã hội đặc biệt khó khăn và tại phiên tòa bị cáo xin miễn án phí. Căn cứ vào khoản 2 Điều 136/BLTTHS; điểm đ khoản 1 Điều 12; Điều 15; Điều 21 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, cần miễn nộp án phì hình sự sơ thẩm đối với bị cáo.

[7] Xét về hành vi và các quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện M C và Viện Kiểm sát nhân dân huyện M C, Điều tra viên, Kiểm sát viên, từ khi khởi tố vụ án, quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đảm bảo về hình thức, đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố cũng như tại phiên tòa bị cáo, người bào chữa và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng pháp luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 251; khoản 1 Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

1. Tuyên bố: Bị cáo Ly A C phạm tội: "Mua bán trái phép chất ma túy".

Xử phạt bị cáo Ly A C 04 (bốn) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giữ, ngày 23/6/2023.

2. Về vật chứng vụ án: Căn cứ vào khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 2, điểm a, b khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy 01 túi nilon màu trắng bên trong có chứa Heroine, có khối lượng 2,325 gam; 01 mảnh ni lông màu hồng; 01 mảnh giấy hình chữ nhật màu xanh – đỏ - trắng, một mặt có in chữ “Kẹo lạc Huyền trang”; 01 phong bì niêm phong vật chứng ban đầu; 01 con dao nhọn, lưỡi dao kim loại dài 24,5 cm, bản rộng lưỡi dao 4 cm, cán dao bằng gỗ dài 17 cm, đường kính 3,5 cm.

Tịch thu nộp ngân sách nhà nước 100.000 đồng gồm 02 tờ tiền, theo KLGĐ số: 1058/KL-KTHS ngày 01/7/2023.

Trả lại 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA BLADE màu sơn: Đen Xanh Xám, biển kiểm soát 27V1 – X, số khung RLHJA3689NY017713, số M: JA36E1111567, xe đã qua sử dụng, không kiểm tra tính năng bên trong (kèm theo 01 chìa khóa xe); 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe M số: 27000656, tên chủ xe Ly A S. Biển số đăng ký: 27V1 – X, số khung RLHJA3689NY017713, số M: JA36E1111567, cho anh Ly A S – Sinh năm: 1997. Nơi cư trú: Bản Nậm P, xã M T, huyện M C, tỉnh Điện Biên.

Số vật chứng trên đã được niêm phong và bàn giao theo biên bản giao, nhận vật chứng giữa Công an huyện M C với Chi cục thi hành án dân sự huyện M C vào ngày 31/8/2023.

3. Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12; Điều 15; Điều 21 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của ủy ban thường vụ quốc hội. Miễn toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Căn cứ vào Điều 331 và Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự, bị cáo có mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, ngày 26/9/2023. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt được quyền kháng cáo phần bản án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày tuyên án, ngày 26/9/2023.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

75
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 56/2023/HS-ST về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:56/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mường Chà - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;