Bản án 56/2021/HSST ngày 12/01/2021 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÒA VANG, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 56/2021/HSST NGÀY 12/01/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 12/01/2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng tiến hành phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 55/2020/TLST-HS ngày 06/10/2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 58/2020/QĐXXST-HS ngày 23/10/2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: TRẦN NGỌC M; Giới tính: nam; Sinh ngày 04/8/1995, tại Đà Nẵng; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không. Nghề nghiệp: không; Trình độ học vấn: 08/12; Nơi cư trú: Tổ 05, Thôn H, xã L, huyện Hòa Vang, Tp. Đà Nẵng. Con ông (không xác định) và bà Trần Thị T (c).

Tiền án : không;

Tiền sự :

-Ngày 18/6/2018, bị Tòa án nhân dân huyện Hòa Vang Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc số 20/2018/QĐ-TA thời hạn 12 tháng.

-Ngày 11/9/2019, bị Tòa án nhân dân huyện Hòa Vang Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc số 12/2019/QĐ-TA thời hạn 18 tháng (Giám đốc trung tâm xã hội Bầu Bàng đã ra Quyết định tạm đình chỉ thi hành Quyết định nêu trên ngày 31/7/2020).

Bị bắt tạm giữ: 31/7/2020; Tạm giam 06/8/2020. Có mặt tại phiên tòa.

* Người bị hại:

- Ông Phạm Văn N, sinh năm 1970. Trú tại: Thôn L, xã B, huyện Hòa Vang, Tp. Đà Nẵng. Vắng mặt.

* Những người làm chứng:

- Anh Dương Thế V, sinh năm 1996; Trú tại: Tổ 4, thôn P, xã B, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng. Vắng mặt.

- Anh Ngô T, sinh năm 1999; Trú tại: Tổ 1, thôn L, xã K, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

*Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 07 giờ 30 phút ngày 31/7/2020, Trần Ngọc M đang là học viên cai nghiện bắt buộc tại Cơ sở xã hội Bầu Bàng thuộc thôn P, xã B, huyện Hòa Vang, Tp. Đà Nẵng theo Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đã lợi dụng sơ hở của cán bộ nên M đã tìm cách bỏ trốn khỏi Cơ sở. M trèo lên hàng rào lưới thép gai trốn ra ngoài và men theo lối mòn bỏ trốn vào nhà dân thuộc thôn L, xã B. Khi đi ngang qua nhà ông Phạm Văn N thì M nhìn thấy 01 xe mô tô hiệu Exciter BKS 92H3-7509 màu trắng đen trên xe có sẵn chìa khóa và không có ai trông coi. Thấy vậy, M đi vào sân nhà lấy xe môtô trên và điều khiển xe theo hướng thôn L đi thôn N. Đi được khoảng 01 km thì bị cán bộ Cơ sở xã hội Bầu Bàng là anh Dương Thế V và anh Ngô T bắt giữ và đưa về lại Cơ sở xã hội Bầu Bàng. Sau đó lực lượng Công an đến làm việc, qua làm việc Trần Ngọc M đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Theo Bản kết luận định giá tài sản số 28/KL-HĐĐG ngày 03/8/2020 của Hội đồng định giá thường xuyên UBND huyện Hòa Vang kết luận: xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter, số máy 1S94041626; số khung S9409Y041620; BKS 92H3-7509 có giá trị là 15.000.000đ (mười lăm triệu đồng).

* Xử lý vật chứng: Ngày 10/8/2020, Cơ quan CSĐT Công an huyện Hòa Vang đã ra Quyết định xử lý vật chứng số 29/QĐ-XLVC: Trả lại cho bị hại anh Phạm Văn N 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter BKS 92H3-7509 và 01 giấy đăng ký xe mô tô mã số 008413 BKS 92H3-7509.

* Về trách nhiệm dân sự: Bị hại Phạm Văn N đã nhận lại tài sản bị trộm cắp và không có yêu cầu gì.

*Với nội dung trên, tại Cáo trạng số 61/CT-VKSHV ngày 06/10/2020 Viện kiểm sát nhân dân huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng đã truy tố Trần Ngọc M về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Trần Ngọc M đã khai nhận hành vi phạm tội vào khoảng 07 giờ 30 phút ngày 31/7/2020, trong khi đang là học viên cai nghiện tại Cơ sở xã hội Bầu Bàng tại xã B, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng theo quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc số 12/2019/QĐ-TA ngày 11/9/2019 của TAND huyện Hòa Vang thời hạn 18 tháng đã lợi dụng sơ hở của cán bộ Cơ sở nên leo lên hàng rào thép gai bỏ trốn ra ngoài. Khi đi ngang qua nhà ông Phạm Văn N phát hiện phía trước hiên nhà có để chiếc xe mô tô BKS 92H3-7509 nhãn hiệu Yamaha Exciter, trên xe có gắn sẵn chìa khóa nhưng không có người trông coi nên đã nảy sinh ý định trộm cắp để làm phương tiện bỏ trốn và điều khiển xe chạy về theo hướng Trung tâm thành phố Đà Nẵng khoảng 02 km thì bị cán bộ của Cơ sở xã hội Bầu Bàng phát hiện bắt giữ. Giá trị tài sản mà bị cáo đã chiếm đoạt của người bị hại là 15.000.000đ (mười lăm triệu đồng).

Tại phiên tòa, người bị hại là ông Phạm Văn N vắng mặt tuy nhiên đã được nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Trần Ngọc M và đề nghị HĐXX: Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm h, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Xử phạt: Bị cáo Trần Ngọc M từ 09 tháng đến 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Về TNDS do người bị hại đã nhận lại tài sản không có yêu cầu bồi thường gì nên không xem xét.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo biết việc bỏ trốn khỏi nơi cai nghiện bắt buộc và thực hiện hành vi trộm cắp tài sản của mình là sai trái, vi phạm pháp luật, vì vậy mong Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo mức án thấp nhất để sớm trở về làm ăn lương thiện và người công dân tốt có ích cho xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng: Cơ quan điều tra Công an huyện Hòa Vang, Điều tra viên. Viện kiểm sát nhân dân huyện Hòa Vang, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo thể hiện: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo Trần Ngọc M đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như cáo trạng đã truy tố. Bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của người bị hại, những người làm chứng, với tang vật thu giữ trong vụ án, kết luận định giá tài sản và các tài liệu chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án. Do đó, HĐXX thấy có đủ căn cứ để kết luận bị cáo Trần Ngọc M phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự như cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hòa Vang đã truy tố là đúng người, đúng pháp luật.

[3] Đánh giá tính chất vụ án, vai trò, mức độ hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân đối với bị cáo như sau: Mặc dù đang trong thời gian chấp hành Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc của Tòa án nhân dân huyện Hòa Vang tại Cơ sở xã hội Bầu Bàng, nhưng bị cáo Trần Ngọc M không những không chấp hành theo nội quy của cơ sở cai nghiện bắt buộc mà còn tìm cách leo tường rào bỏ trốn ra ngoài và thực hiện trộm cắp tài sản.

Hành vi trộm cắp tài sản của bị cáo Trần Ngọc M là nguy hiểm cho xã hội, bị pháp luật nghiêm cấm, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an xã hội, gây hoang mang lo lắng việc quản lý, bảo vệ tài sản của nhân dân, lợi dụng sơ hở của bị hại không có người trông coi nên lén lút trộm cắp của 01 xe motor nhãn hiệu Yamaha Exciter của người bị hại là ông Phạm Văn N để nhằm mục đích làm phương tiện đi lại. Tài sản mà bị cáo trộm cắp của người bị hại có giá trị 15.000.000 đồng. Do đó, HĐXX thấy cần phải xử phạt bị cáo mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội nhằm giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[4] Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu, ngày 18/6/2018, bị Tòa án nhân dân huyện Hòa Vang Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc số 20/2018/QĐ-TA thời hạn 12 tháng.

-Ngày 11/9/2019, bị Tòa án nhân dân huyện Hòa Vang Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc số 12/2019/QĐ- TA thời hạn 18 tháng.

[5[ Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: không có

[6] Về tình tiết giảm nhẹ tránh nhiệm hình sự: Quá trình điều tra vụ án cũng như tại phiên tòa bị cáo Trần Ngọc M đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại. Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Tài sản bị cáo chiếm đoạt đã được thu hồi trả lại cho người bị hại và không yêu cầu bồi thường. Hoàn cảnh gia đình khó khăn, là con duy nhất trong gia đình mồ côi cha mẹ nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ theo điểm h, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Về trách nhiệm dân sự: Mặc dù tại phiên tòa ông Phạm Văn N vắng mặt nhưng trong quá trình điều tra đã được nhận lại tài sản mà bị cáo trộm cắp và không yêu cầu bồi thường, do đó HĐXX không xem xét.

[7] Về tang vật vụ án: Ngày 10/8/2020, Cơ quan CSĐT Công an huyện Hòa Vang đã Quyết định xử lý vật chứng số 29/QĐ-XLVC về việc trả lại cho bị hại ông Phạm Văn N 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter BKS 92H3-7509 và 01 giấy đăng ký xe mô tô mã số 008413, do đó HĐXX không xem xét.

[8] Từ những nhận định trên, xét lời luận tội của đại diện Viện kiểm viện nhân dân huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng về tội danh và áp dụng các điều luật là có căn cứ, đúng pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[9] Án phí hình sự sơ thẩm bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm h, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố : Bị cáo Trần Ngọc M phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Xử phạt: Trần Ngọc M 12 (mười hai) tháng tù. Thời gian thụ hình tính từ ngày bị bắt tạm giữ 31/7/2020.

Án phí: Căn cứ các Điều 135, 136 Bộ luật tố tụng hình sự. Buộc bị cáo phải chịu 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày tuyên án. Người bị hại vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết tại nơi cư trú.

Trường hợp bản án được thi hành theo Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

332
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 56/2021/HSST ngày 12/01/2021 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:56/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hoà Vang - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;