Bản án 56/2021/HSST ngày 10/06/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ H, TỈNH HÒA BÌNH

BẢN ÁN 56/2021/HSST NGÀY 10/06/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 10 tháng 6 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố H, tỉnh Hòa Bình, mở phiên tòa công khai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 33/2021/HSST ngày 30 tháng 03 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 40/2021/HSST ngày 13 tháng 04 năm 2021 đối với bị cáo:

Nguyễn Anh T, sinh năm 1976 Nơi ĐKHKTT: Tiểu khu 8, thị trấn Phù Yên, huyện P, tỉnh Sơn La.

Chỗ ở hiện nay: Khu 2, phường K, thành phố H, tỉnh Hòa Bình.

Dân tộc: Mường; Tôn giáo: không; Trình độ văn hóa: 12/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông: Nguyễn Văn T, Con bà: Nguyễn Thị Thanh Ng; Có vợ là: Cầm Thị Th, sinh năm 1976 (đã ly hôn) và 02 con; Gia đình có 03 chị em, bị cáo là con thứ ba.

Tiền án,Tiền sự: Không Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 15/12/2020 đến nay, hiện tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hòa Bình, có mặt tại phiên tòa.

Nguyễn Đức A, sinh năm 1988 Nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: xóm Trại, thôn Vân Hội, xã P, huyện B, thành phố Hà Nội.

Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hóa: 9/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông: Nguyễn Văn L, Con bà: Đinh Thị B; Có vợ là: Phùng Thị Tr, sinh năm 1989 và 03 con; Gia đình có 03 anh em, bị cáo là con thứ nhất.

Tiền án,Tiền sự: Không Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 15/12/2020 đến nay, hiện tạm giam tại trại tạm giam Công an tỉnh Hòa Bình, có mặt tại phiên tòa.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: ông Nguyễn Văn L, sinh năm 1966 Nơi cư trú: xóm Trại, Vân Hội, xã Phong Vân, huyện B, thành phố Hà Nội (có mặt)

* Người chứng kiến:

+ Anh Trần Văn Th, sinh năm 1964 Nơi cư trú: Tổ 12, phường H, thành phố H, tỉnh Hòa Bình (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do có nhu cầu mua ma túy để sử dụng, nên khoảng 12 giờ 00 phút ngày 15/12/2020 Nguyễn Đức A sinh năm 1988; Nơi cư trú: xóm Trại, thôn Vân Hội, xã Phong Vân, huyện B, thành phố Hà Nội dùng điện thoại di động số thuê bao 0985.833659 gọi cho Nguyễn Anh T, sinh năm 1976, cư trú tại: khu 2, phường K, thành phố H, tỉnh Hòa Bình để rủ T cùng đi mua ma túy, T đồng ý, sau đó điều khiển xe mô tô nhãn hiệu NOVO, màu đen BKS 28S7- 6970 đến phố Thia, xã Y, thành phố H để đón Đ, trên đường đi T dừng xe để Đức A vào một cây ATM rút 300.000đ. Rút tiền xong, Đức A đưa cho T tổng số tiền 500.000đ, trong đó có 300.000đ là tiền của Đức A và 200.000đ là tiền của một người đàn ông tên Đ, không rõ lai lịch, địa chỉ đến thuyền của Đức A chơi gửi nhờ mua hộ ma túy, T cầm tiền và chở Đức A đi vào khu vực phường D, thành phố H để tìm mua ma túy, trong lúc đang đi trên đường Quốc lộ 6 thì T nhìn thấy một người đàn ông đứng ven đường, cạnh một chiếc xe Wave màu xanh đen. T dừng xe và bảo Đức A đứng đợi, còn T cầm tiền đi đến chỗ người đàn ông đó và nhờ người này mua hộ 500.000đ ma túy. Người đàn ông đó cầm tiền và điều khiển xe máy đi đâu khoảng 15 phút, sau đó quay lại đưa cho T 02 gói ma túy, T cất ma túy vào túi áo bên phải đang mặc rồi đi ra chỗ Đức A đang đứng đợi. Lúc này Đức A điều khiển xe mô tô BKS 28S7- 6970 chở T đi về, khi đi đến khu vực tổ 15, phường Đ, thành phố H thì bị Tổ công tác của Công an tỉnh Hòa Bình phát hiện bắt quả tang, tiến hành thu giữ vật chứng và các đồ vật, tài sản liên quan theo quy định.

Tại Bản kết luận giám định số 360/KLGĐ - CAT-PC 09 ngày 22/12/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hòa Bình kết luận: “Chất bột dạng cục màu trắng, hồng trong 02 gói giấy niêm phong trong phòng bì ghi " Vật chứng thu giữ khi bắt quả tang: Nguyễn Anh T, sinh năm 1976, nơi cư trú: khu 2, phường K, thành phố H cùng đồng bọn xảy ra ngày 15/12/2020 tại tổ 15, phường Đ, thành phố H" gửi giám định có tổng khối lượng 0,71 gam là ma túy, loại Heroine và Methamphetamin”.

Bản cáo trạng số: 30/CT-VKS ngày 26/03/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố H truy tố Nguyễn Anh T và Nguyễn Đức A về tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm i khoản 1 Điều 249 BLHS.

Kết thúc quá trình tranh tụng, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên Quyết định truy tố, về hình phạt đề nghị HĐXX áp dụng: điểm i khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 17, 38, 47, 58 BLHS, Điều 106 BLTTHS xử phạt:

Nguyễn Anh T mức án từ 15 đến 18 tháng tù, Nguyễn Đức A mức án từ 18 đến 21 tháng tù.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị tuyên xuất hủy 0,46 gam ma túy là vật chứng vụ án được hoàn lại sau khi lấy mẫu giám định.

Trả lại cho bị cáo Nguyễn Anh T 01 điện thoại đi động nhãn hiệu Iphone màu vàng; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Philips màu đen; 01 Chứng minh thư nhân dân và 01 giấy phép lái xe mô tô mang tên Nguyễn Anh T.

Trả lại cho ông Nguyễn Văn L 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu xanh đen.

Đề nghị tuyên trả lại cho Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố H 01 giấy đăng ký xe mô tô số 005345, mang tên Đỗ Thanh N để bảo quản và xử lý theo quy định.

Đối với chiếc xe mô tô BKS 28S7- 6970, quá trình điều tra, do chưa xác định được chủ sở hữu hợp pháp, Cơ quan điều tra tiếp tục lưu kho vật chứng để xử lý theo quy định, nên không đề cập.

Đối với yêu cầu trả lại 01 thẻ ATM của chị Phùng Thị Tr, căn cứ kết quả điều tra thấy yêu cầu của chị Trang là không có căn cứ, nên không đề cập giải quyết.

Đối với người đàn ông tên Đ và người đàn ông bán ma túy cho các bị cáo, quá trình điều tra do không xác định được đối tượng cụ thể, nên không có căn cứ xử lý.

Về án phí: Đề nghị áp dụng Điều 136 BLTTHS, Nghị Quyết 326/2016/ UBTVQH 14, ngày 30/12/2016 của Quốc Hội, buộc các bị cáo chịu án phí theo quy định pháp luật.

Các bị cáo trình bày lời bào chữa, thừa nhận hành vi phạm tội như cáo trạng đã truy tố, về hình phạt đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi và Quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng, của cơ quan tiến hành tố tụng trong giai đoạn điều tra, truy tố được thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố, cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị cáo và người tham gia tố tụng khác không có khiếu nại gì. Do vậy hành vi và quyết định tố tụng đó là hợp pháp.

[2] Về căn cứ buộc tội, gỡ tội, tội danh và điều luật áp dụng: Quá trình điều tra, cũng như tại phiên tòa hôm nay, Nguyễn Anh T và Nguyễn Đức A khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai của các bị cáo phù hợp với hành vi khách quan vụ án, lời khai của người chứng kiến, vật chứng thu giữ, các tài liệu, chứng cứ khác đã thu thập. Căn cứ tài liệu, chứng cứ đã thu thập, kết quả tranh tụng tại phiên tòa. Có đủ căn cứ kết luận: Nguyễn Anh T và Nguyễn Đức A phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 BLHS.

Bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hòa Bình truy tố các bị cáo theo tội danh và điều khoản trên là có căn cứ, đúng pháp luật.

Nguyễn Anh T và Nguyễn Đức A là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, các bị cáo nhận thức được hành vi mua bán, tàng trữ trái phép ma túy là vi phạm pháp luật, xong vì nghiện ma túy và coi thường pháp luật, các bị cáo vẫn cố ý thực hiện dẫn đến phạm tội.

Hành vi các bị cáo thực hiện xâm hại đến chính sách quản lý chất ma túy của Nhà nước, gây mất trật tự, trị an xã hội, làm gia tăng tội phạm trên địa bàn, mặt khác ma túy còn là nguồn gốc phát sinh các tội phạm khác, do đó cần xử lý nghiêm minh mới đảm bảo tác dụng giáo dục, và phòng ngừa tội phạm chung.

Xét tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân bị cáo thấy tội phạm các bị cáo gây ra thuộc trường hợp nghiêm trọng, các bị cáo là người có nhân thân xấu, bản thân nghiện chất chất ma túy, khối lượng ma túy tàng trữ là 0,71gam. Với tính chất trên, cần áp dụng hình phạt tù cách ly các bị cáo khỏi xã hội một thời gian nhất định mới đảm bảo tác dụng giáo dục.

Xét vụ án thuộc trường hợp đồng phạm giản đơn, bị cáo Nguyễn Đức A là người khởi sướng, chủ động rủ rê bị cáo Nguyễn Anh T phạm tội, cung cấp tiền để mua ma túy, cùng tham gia thực hiện tội phạm, do đó chịu trách nhiệm cao hơn bị cáo T, bị cáo T tham gia tội phạm với vai trò đồng phạm giúp sức, sử dụng phương tiện của mình để chở bị cáo A đi mua ma túy, là người trực tiếp mua bán, cất giữ ma túy nên chịu trách nhiệm sau bị cáo Đức A.

Về hình phạt bổ sung: xét hiện các bị cáo không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định, nên không áp dụng hình phạt bổ sung phạt tiền với các bị cáo.

[3] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong vụ án này các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra, truy tố, xét xử Nguyễn Anh T và Nguyễn Đức A có thái độ thành khẩn khai báo, các bị cáo có bố, mẹ, người thân là liệt sỹ và người có công với cách mạng, do đó cần áp dụng các tình tiết này để giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho các bị cáo khi quyết định hình phạt, các tình tiết quy định tại khoản 1, 2 Điều 51 BLHS.

[4] Về xử lý vật chứng: Tịch thu xuất hủy 0,46 gam ma túy là vật chứng vụ án được hoàn lại sau khi lấy mẫu giám định.

Xét thấy không liên quan đến việc phạm tội, nên trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp các tài sản sau:

Trả cho bị cáo Nguyễn Anh T 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu vàng; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Philips màu đen; 01 chứng minh thư nhân dân và 01 giấy phép lái xe mô tô mang tên Nguyễn Anh T.

Trả cho ông Nguyễn Văn L 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu xanh đen.

Trả lại cho Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố H 01 giấy đăng ký xe mô tô số 005345, mang tên Đỗ Thanh N để bảo quản và xử lý theo quy định.

Đối với chiếc xe mô tô BKS 28S7- 6970, quá trình điều tra, do chưa xác định được chủ sở hữu hợp pháp, Cơ quan điều tra tiếp tục lưu kho vật chứng để xử lý theo quy định pháp luật, nên Tòa không đề cập.

Đối với yêu cầu trả lại 01 thẻ ATM của chị Phùng Thị Tr, xét thấy chị Tr không quyền lợi tài sản liên quan, nên không đưa chị Trang tham gia tố tố tụng và đề cập giải quyết trong vụ án này.

Đối với người đàn ông tên Đ, người góp 200.000đ nhờ mua hộ ma túy và người đàn ông bán ma túy cho các bị cáo, Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh, nhưng chưa xác định được đối tượng cụ thể, Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh làm rõ, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau.

[5] Vế án phí: Căn cứ Điều 136 BLTTHS và Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về án phí, lệ phí tòa án, buộc các bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Từ các nhận định trên

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Nguyễn Anh T và Nguyễn Đức A phạm tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy”

2. Áp dụng: Điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 17, 38, 47, 58 BLHS, Điều 106, 136 Bộ luật tố tụng hính sự và Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Quốc Hội về án phí, lệ phí Tòa án.

3. Xử phạt: Nguyễn Anh T 15 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 15/12/2020.

Xử phạt: Nguyễn Đức A 17 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ tạm giam 15/12/2020

4. Về xử lý vật chứng: Tuyên xuất hủy 0,46 gam ma túy là vật chứng vụ án, được hoàn lại sau khi lấy mẫu giám định, được niêm phong trong phong bì.

Trả lại cho bị cáo Nguyễn Anh T 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu vàng; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Philips màu đen và 01 CMTND; 01 giấy phép lái xe mô tô mang tên Nguyễn Anh T.

Trả lại cho ông Nguyễn Văn L 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu xanh đen.

Trả lại cho Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố H 01 Giấy đăng ký xe mô tô số 005345, mang tên Đỗ Thanh N.

Các vật chứng trên có đặc điểm như mô tả trong biên bản giao nhận vật chứng số: 60/BB ngày 5 tháng 4 năm 2021, hiện lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố H.

5. Về án phí: Nguyễn Anh T và Nguyễn Đức A mỗi bị cáo phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

6. Về quyền kháng cáo: Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, các bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

192
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 56/2021/HSST ngày 10/06/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:56/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Hòa Bình - Hoà Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;