Bản án 56/2021/HNGĐ-ST ngày 29/06/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN C – TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 56/2021/HNGĐ-ST NGÀY 29/06/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 29 tháng 6 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện C xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 45/2021/TLST-HNGĐ ngày 13 tháng 01 năm 2021 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 26/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 12 tháng 5 năm 2021 giữa các đương sự:

1.Nguyên đơn:

Chị Trương Thị Kim N, sinh năm 1988.

Địa chỉ: 140, ấp A, xã A, huyện C, tỉnh Bến Tre. Chổ ở hiện nay: ấp L, xã L, huyện B, tỉnh Bến Tre.

2. Bị đơn:

Anh Huỳnh Thanh H, sinh năm 1975.

Địa chỉ: 140, ấp A, xã A, huyện C, tỉnh Bến Tre.

Tại phiên tòa sơ thẩm nguyên đơn có mặt, bị đơn vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 23/11/2020 và quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Trương Thị Kim N có lời trình bày:

Chị và anh Huỳnh Thanh H tự nguyện chung sống với nhau, cả hai có đăng ký kết hôn và làm đám cưới theo phong tục truyền thống và hai người đã nhận được giấy chứng nhận kết hôn của UBND xã A, huyện C ngày 29/5/2008.

Sau khi đăng ký kết hôn, hai vợ chồng chung sống với nhau tại số 140, ấp A, xã A, huyện C, tỉnh Bến Tre. Thời gian đầu có hạnh phúc nhưng chỉ được khoảng thời gian ngắn trong vòng khoảng 01 năm thì phát sinh mâu thuẩn mà nguyên nhân do hai người có những suy nghĩ, việc làm không phù hợp nhau, cách sống không giống nhau và hiện chị đã chuyển về nhà cha mẹ ruột tại ấp L, xã L, huyện B, tỉnh Bến Tre để sống ly thân với anh H từ khi chị gửi đơn đến Tòa án xin ly hôn và trong thời gian từ khi ly thân cho đến nay hai bên vẫn không có biện pháp gì để hàn gắn lại tình cảm. Nay chị khẳng định tình cảm vợ chồng không còn nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho được ly hôn với anh H và do chị tự nuôi sống bản thân vì vậy không yêu cầu anh H cấp dưỡng cho chị sau khi ly hôn.

Về con chung: Trong thời kỳ hôn nhân có 02 con chung là cháu Huỳnh Thanh T, sinh ngày 04/9/2013, cháu Huỳnh Thanh T, sinh ngày 30/7/2008, hiện đang sống chung với chị N, anh sau khi ly hôn chị N yêu cầu nuôi cháu Huỳnh Thanh T và không yêu cầu anh H cấp dưỡng cho con.

Về tài sản chung: Hai bên tự thỏa thuận nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Không có vì vậy không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Theo biên bản hòa giải bị đơn anh Huỳnh Thanh H có lời trình bày:

Anh cũng thừa nhận anh và chị N tự nguyện tìm hiểu, tự nguyện kết hôn và có làm đám cưới theo phong tục truyền thống và hai người có đăng ký kết hôn đã nhận được giấy chứng nhận kết hôn của UBND xã A, huyện C ngày 29/5/2008.

Sau khi đăng ký kết hôn, vợ chồng chung sống với nhau tại ấp A, xã A, huyện C, tỉnh Bến Tre. Thời gian đầu có hạnh phúc nhưng về sau thì đúng là có phát sinh mâu thuẩn mà nguyên nhân do hai bên không phù hợp nhau về cách sống, bất đồng quan điểm và cách nhìn nhận sống không giống nhau như chị N đã nêu đã nêu và hiện hai người sống ly thân từ đầu năm 2021 cho đến nay và trong thời gian này cả hai vẫn không có biện pháp gì để hàn gắn tình cảm. Nay nếu chị N đã suy nghĩ kỷ và cương quyết ly hôn, bản thân anh cũng nhận thấy tình cảm của anh đối với chị N cũng không còn nhưng vì còn có hai con chung nên không đồng ý thuận tình ly hôn tuy nhiên nếu chị N làm thủ tục ủy quyền thửa đất tại ấp H, xã G, huyện C cho anh Huỳnh Thanh H đứng tên trong vòng 07 ngày tròn kể từ ngày hôm nay thì anh đồng ý thuận tình ly hôn, anh cũng không yêu cầu chị Ngân cấp dưỡng sau khi ly hôn vì anh đủ khả năng nuôi sống bản thân.

Về con chung: Trong thời kỳ hôn nhân có 02 con chung là cháu Huỳnh Thanh T, sinh ngày 04/9/2013, cháu Huỳnh Thanh T, sinh ngày 30/7/2008, hiện đang sống chung với chị N, anh H. Nếu ly hôn, anh yêu cầu nuôi cháu Huỳnh Thanh T, sinh ngày 30/7/2008, hiện đang sống chung với anh H và không yêu cầu chị Ngân cấp dưỡng cho con.

Về tài sản chung: Chị N trình bày hai bên tự thỏa thuận, cụ thể chị N sẽ làm thủ tục ủy quyền thửa đất tại ấp H, xã G, huyện C cho anh Huỳnh Thanh H đứng tên trong vòng 07 ngày tròn kể từ ngày 12/5/2021 nhưng chị N chưa làm văn bản thỏa thuận vì vậy anh không đồng ý ký tên vào Biên bản ghi nhận sư tự nguyện ly hôn và hòa giải thành do Tòa án lập.

Về nợ chung: Chị N trình bày không có là đúng.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện C, tỉnh Bến Tre tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm:

Trong quá trình thụ lý, giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký tuân thủ đúng quy định pháp luật tố tụng.

Về quan điểm giải quyết vụ án: Do mâu thuẫn trong cuộc sống vợ chồng của nguyên đơn, bị đơn đã đến mức trầm trọng; đã sống ly thân từ đầu năm 2021 đến nay, không còn quan tâm đến cuộc sống của nhau đã vi phạm nghiêm trọng quyền và nghĩa vụ của vợ chồng. Đề nghị Hội đồng xét xử quyết định chấp nhận yêu cầu ly hôn của nguyên đơn đối với bị đơn, công nhận sự thỏa thuận về nuôi con chung; về tài sản chung ghi nhận hai bên tự thỏa thuận và về nợ chung ghi nhận hai đương sự trình bày không có.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1].Về tố tụng:

Bị đơn trong vụ án vắng mặt không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai, theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt bị đơn.

[2]. Về nội dung:

Chị Trương Thị Kim N và anh Huỳnh Thanh H kết hôn ngày 29/5/2008. do tự nguyện, hai bên có và có đăng ký tại Uỷ ban nhân dân xã A, huyện C, tỉnh Bến Tre, đây là hôn nhân hợp pháp được pháp luật bảo vệ. Thời gian đầu sau khi kết hôn, cuộc sống vợ chồng hạnh phúc nhưng chỉ được khoảng thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẩn mà nguyên nhân do hai người có những suy nghĩ, việc làm không phù hợp nhau, cách sống không giống nhau và hiện hai bên đương sự đã sống ly thân nhau từ đầu năm 2021 cho đến nay. Nguyên đơn xác định tình cảm vợ chồng với bị đơn không còn nên yêu cầu được ly hôn, phía bị đơn cũng đồng ý ly hôn theo yêu cầu của nguyên đơn vì anh xác định không thể hàn gắn lại tình cảm với nguyên đơn.

Sau khi thụ lý vụ án Tòa án đã tiến hành thông báo hợp lệ các phiên hòa giải với mục đích là hòa giải, động viên nhằm hàn gắn tình cảm, quan hệ giữa vợ chồng cho hai bên tuy nhiên nguyên đơn cương quyết ly hôn, bị đơn cũng không muốn hàn gắn và tự nguyện ly hôn theo yêu cầu của nguyên đơn.

Từ những phân tích, đánh giá như trên, Hội đồng xét xử nhận định bị đơn dù biết ly hôn là chấm dứt quan hệ hôn nhân nhưng bị đơn đã bỏ mặc cho nguyên đơn tự giải quyết, không cùng nguyên đơn có các biện pháp tích cực nhằm cải thiện tình trạng hôn nhân của cả hai để kéo dài mối quan hệ hôn nhân. Như vậy tình trạng hôn nhân của cả hai đã trầm trọng, đời sống chung của vợ chồng không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được, Hội đồng xét xử cần thiết phải chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn cho nguyên đơn, cho nguyên đơn được ly hôn với bị đơn là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

Về con chung: Nguyên đơn và bị đơn có 02 con chung là Huỳnh Thanh T, cháu Huỳnh Thanh T.

Tại biên bản hòa giải ngày 12/5/2021, hai bên thỏa thuận sau khi ly hôn chị Trương Thị Kim N có quyền, nghĩa vụ trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung là cháu Huỳnh Thanh T, sinh ngày 04/9/2013, hiện đang sống chung với chị N cho đến khi cháu T đủ 18 tuổi.

Anh Huỳnh Thanh H có quyền, nghĩa vụ trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung là cháu Huỳnh Thanh T, sinh ngày 30/7/2008, hiện đang sống chung với anh H cho đến khi cháu T đủ 18 tuổi.

Xét đây là sự tự nguyện thỏa thuận của hai bên và cũng phù hợp với nguyện vọng của con chung vì vậy được ghi nhận Đối với nghĩa vụ cấp dưỡng cho con do hai đương sự không yêu cầu, xét đây là sự tự nguyện của hai đương sự vì vậy Hội đồng xét xử cần ghi nhận.

Về tài sản chung: Chị N trình bày hai bên tự thỏa thuận giải quyết vì vậy Hội đồng xét xử không xem xét.

Về nợ chung: Chị N, anh H trình bày không có vì vậy Hội đồng xét xử không xem xét.

Lời phát biểu của Vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện C tại phiên tòa về hình thức, nội dung vụ án là phù hợp với việc đánh giá của Hội đồng xét xử vì vậy được Hội đồng xét xử chấp nhận.

Về án phí dân sự sơ thẩm là 300.000đồng (Ba trăm nghìn đồng), theo quy định tại Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án thì nguyên đơn chị Trương Thị Kim N phải có nghĩa vụ chịu nhưng được khấu trừ vào số tiền 300.000đồng (Ba trăm ngàn đồng) theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí tòa án số 0004857 ngày 05 tháng 01 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện C, tỉnh Bến Tre.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; các Điều 56, 81; 82; 83 và 84 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 và Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Cụ thể tuyên:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Trương Thị Kim N 1. Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Trương Thị Kim N được ly hôn với anh Huỳnh Thanh H.

Ghi nhận chị Trương Thị Kim N và anh Huỳnh Thanh H không yêu cầu cấp dưỡng giữa vợ và chồng sau khi ly hôn.

2. Về con chung:

Chị Trương Thị Kim N có quyền, nghĩa vụ trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung là cháu Huỳnh Thanh T, sinh ngày 04/9/2013 cho đến khi cháu T đủ 18 tuổi.

Anh Huỳnh Thanh H có quyền, nghĩa vụ trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung là cháu Huỳnh Thanh T, sinh ngày 30/7/2008 cho đến khi cháu T đủ 18 tuổi.

Ghi nhận chị N, anh H không yêu cầu về nghĩa vụ cấp dưỡng cho con.

Anh Hiệp, chị Ngân có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung, không ai được cản trở anh, chị thực hiện quyền, nghĩa vụ này tuy nhiên khi người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Vì lợi ích của con chung, một hoặc cả hai bên có quyền yêu cầu Tòa án quyết định việc cấp dưỡng cho con.

Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, cơ quan, tổ chức quy định tại khoản 5 Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.

3. Về tài sản chung: Hai bên tự thỏa thuận giải quyết.

4. Về nợ chung: Không có.

5. Về án phí dân sự sơ thẩm:

Chị Trương Thị Kim N có nghĩa vụ chịu số tiền 300.000đồng (Ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về việc ly hôn nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 300.000đồng (Ba trăm ngàn đồng) theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí tòa án số 0004857 ngày 05 tháng 01 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện C, tỉnh Bến Tre.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

175
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 56/2021/HNGĐ-ST ngày 29/06/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:56/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - Bến Tre
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;