Bản án 56/2021/HNGĐ-ST ngày 21/07/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẠ LONG, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 56/2021/HNGĐ-ST NGÀY 21/07/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 21 tháng 7 năm 2021 tại Phòng xử án Toà án nhân dân thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số:174/2021/TLST-HNGĐ ngày 30 tháng 3 năm 2021 về việc: "Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 111/2021/QĐXXST- HNGĐ ngày 01 tháng 7 năm 2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Lê Thị Hạnh H, sinh năm 1988.

Địa chỉ: Tổ 44, khu 4, phường H1, thành phố H2, tỉnh Quảng Ninh.

Có mặt.

2. Bị đơn: Anh Bùi Vĩnh T, sinh năm 1983.

Địa chỉ: Tổ 44, khu 4, phường H1, thành phố H2, tỉnh Quảng Ninh.

Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện đề ngày 23/3/2021, tại bản tự khai ngày 15/4/2021, trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn chị Lê Thị Hạnh H trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị tự nguyện kết hôn với anh Bùi Vĩnh T vào ngày 13/3/2015, đăng ký kết hôn tại UBND phường H1, thành phố H2, tỉnh Quảng Ninh. Trước khi kết hôn chưa ai có vợ, có chồng và có thời gian tìm hiểu nhau 08 tháng. Sau khi kết hôn vợ chồng về sống chung với nhau hòa thuận hạnh phúc đến năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn. Thời điểm đó chị đã làm đơn ra Tòa xin ly hôn với anh T, được Tòa hòa giải, vợ chồng về đoàn tụ với nhau. Sau khi về đoàn tụ, cuộc sống chung của vợ chồng không có hạnh phúc. Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng quan điểm, không có tiếng nói chung, thường xuyên xảy ra cãi vã, hai bên thiếu sự tôn trọng lẫn nhau. Tháng 6/2020, anh T có đánh chị gãy xương sườn phải đi điều trị tại bệnh viện. Mâu thuẫn của hai vợ chồng đã được gia đình hòa giải nhưng không có kết quả. Vợ chồng sống ly thân với nhau từ tháng 01/2021 đến nay, mỗi người sống một nơi, không ai quan tâm đến ai, hai bên không có biện pháp hàn gắn tình cảm vợ chồng. Đến nay chị xác định mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, tình cảm chị dành cho anh T không còn, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh T.

Về con chung: Chị và anh Bùi Vĩnh T có 01 con chung là Bùi Lê Trúc Q, sinh ngày 02/12/2016. Khi hai vợ chồng sống ly thân con chung sống với chị. Khi ly hôn, chị có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung: Chị và anh T không có tài sản chung, không có nợ chung, không yêu cầu tòa án giải quyết.

Trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng như Thông báo thụ lý vụ án, giấy triệu tập, Thông báo mở phiên họp tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, ... Quyết định đưa vụ án ra xét xử theo đúng quy định của pháp luật cho anh Bùi Vĩnh T, nhưng anh T không chấp hành, không lên Tòa tham gia giải quyết vụ án.

Tại phiên tòa hôm nay, bị đơn - anh Bùi Vĩnh T có mặt, trình bày như sau:

Anh kết hôn với chị Lê Thị Hạnh H vào tháng 3/2015, đăng ký kết hôn tại UBND phường H1, trước khi kết hôn chưa ai có vợ có chồng, có thời gian tìm hiểu nhau khoảng vài tháng. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng có những bất đồng trong lối sống và cách sinh hoạt nên hay xảy ra cãi vã. Thời điểm đó chị H đã làm đơn ra Tòa xin ly hôn với anh nhưng được Tòa động viên vợ chồng về đoàn tụ. Sau khi về đoàn tụ, cuộc sống chung vợ chồng không có hạnh phúc, vào tháng 6/2020, vợ chồng xảy ra mâu thuẫn, anh có đánh chị H gãy một chiếc xương sườn. Từ tháng 01/2021, chị H bỏ ra ngoài sống riêng, vợ chồng sống ly thân từ đó đến nay. Anh xác định mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, chưa có hướng khắc phục hòa giải nếu chị H muốn ly hôn, anh cũng đồng ý và đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Về con chung: Anh và chị Hoa có 01 con chung là Bùi Lê Trúc Q, sinh ngày 02/12/2016. Nếu ly hôn, anh đề nghị được nuôi con chung, không yêu cầu chị H cấp dưỡng nuôi con chung. Trường hợp Tòa giao con chung cho chị H nuôi dưỡng thì anh tự nguyện cấp dưỡng nuôi con chung 2.000.000 đồng/01 tháng. Thời hạn cấp dưỡng kể từ khi bản án của Tòa án có hiệu lực pháp luật.

Về tài sản chung: Anh và chị H không có tài sản chung, không có nợ chung, không đề nghị Tòa án giải quyết.

Xác nhận của chính quyền địa phương (Tại Biên bản xác minh với bà Phạm Thị Đ – Tổ trưởng tổ 44, khu 4, phường H1, thành phố H2) thể hiện: Trong cuộc sống gia đình, chị H và anh T có nhiều mâu thuẫn. Trước đây chị H đã từng làm đơn ra Tòa, được Tòa và địa phương động viên hòa giải đoàn tụ nhưng quá trình chung sống, anh chị vẫn nảy sinh nhiều mâu thuẫn, cãi vã đánh chửi nhau. Vào năm 2020, gia đình anh chị xảy ra xô xát, anh T đánh chị H phải đi điều trị tại bệnh viện. Đến khoảng tháng 01/2021, mâu thuẫn của anh chị ngày càng trầm trọng, chị H đã chuyển ra thuê nhà ở riêng cùng con gái. Khi chị H làm đơn ra Tòa xin ly hôn với anh T, chị H đã thông báo cho bà, bà đã giao thông báo thụ lý cho anh T, trực tiếp động viên anh T lên tòa án làm việc nhưng anh T bảo bận việc không lên Tòa giải quyết được, việc chị H gửi đơn xin ly hôn, Tòa cứ giải quyết theo quy định của pháp luật, anh T không có ý kiến gì.

Tại phiên tòa, chị H vẫn giữ nguyên quan điểm xin ly hôn với anh T, đề nghị được trực tiếp nuôi con chung, không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con chung. Anh T đồng ý ly hôn với chị H, đề nghị được trực tiếp nuôi con chung, không yêu cầu chị H cấp dưỡng nuôi con chung.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh phát biểu ý kiến:

Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử và thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Các đương sự cơ bản đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định của Điều 70, 71, 72 Bộ luật tố tụng dân sự.

Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, xử cho chị Lê Thị Hạnh H được ly hôn với anh Bùi Vĩnh T. Về con chung: Con chung hiện còn nhỏ, chị H hiện đang là giáo viên mầm non đủ điều kiện đảm bảo nuôi con chung nên cần giao con chung cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng, anh T có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung 2.000.000 đồng/01 tháng; về tài sản chung: Không có nên không đề cập.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

Nguyên đơn khởi kiện vụ án hôn nhân và gia đình về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” đối với bị đơn thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Hạ Long theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa chị Lê Thị Hạnh H và anh Bùi Vĩnh T là quan hệ hôn nhân hợp pháp, được pháp luật công nhận và bảo vệ.

Xét yêu cầu ly hôn của chị H, Hội đồng xét xử thấy: Mâu thuẫn trong quan hệ hôn nhân giữa chị H và anh T xuất phát chủ yếu từ việc vợ chồng bất đồng quan điểm sống, mâu thuẫn trong đời sống sinh hoạt, anh T có hành vi bạo lực gia đình. Mặc dù những mâu thuẫn này vợ chồng đã cố gắng tự hòa giải nhưng không có kết quả, mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng hơn, vợ chồng đã sống ly thân từ tháng 01/2021 đến nay, từ khi sống ly thân không ai quan tâm, chăm sóc đến ai. Đến nay, chị H và anh T xác định tình cảm vợ chồng dành cho nhau không còn, chị H và anh T cùng đề nghị Tòa án giải quyết cho được ly hôn.

Đối chiếu với quy định tại điều 56 Luật hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử thấy tình trạng hôn nhân giữa chị H và anh T là trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, nên chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị H và anh T.

[3] Về con chung: Chị H và anh T có 01 con chung là Bùi Lê Trúc Q, sinh ngày 02/12/2016. Chị H và anh T đều đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng con chung đến khi thành niên, không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung.

Xét việc giao con cho ai nuôi phải căn cứ vào điều kiện, hoàn cảnh để nuôi con thì thấy: Con chung của anh chị hiện còn nhỏ, là con gái, đang sống với mẹ. Anh T hiện tại đang làm lái xe, thời gian làm việc hàng ngày từ 5 giờ 30 phút đến 14 giờ 30 phút, trường hợp giao con cho anh T trực tiếp nuôi dưỡng sẽ hạn chế về điều kiện chăm sóc con, làm thay đổi cuộc sống hiện tại và ảnh hưởng tâm lý của con trẻ đang tuổi phát triển; Anh T cũng thừa nhận hiện chị H đang chăm sóc con chung chu đáo. Hiện tại chị H đang chăm sóc con phát triển tốt đồng thời chị H đang làm giáo viên mầm non có điều kiện và thời gian chăm sóc con tốt hơn; Căn cứ Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình, căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con thì yêu cầu được trực tiếp nuôi con chung của chị H phù hợp nên có căn cứ để chấp nhận.

Về vấn đề cấp dưỡng nuôi con chung: Chị H không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con chung nhưng tại phiên tòa hôm nay, anh T tự nguyện cấp dưỡng nuôi con chung 2.000.000 đồng/01 tháng nên cần chấp nhận; Thời hạn cấp dưỡng kể từ khi bản án của Tòa án có hiệu lực pháp luật.

[4] Về tài sản chung: Chị H và anh T xác nhận vợ chồng không có tài sản chung, không có nợ chung nên Hội đồng xét xử không xét.

[5] Về án phí: Nguyên đơn, bị đơn phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

[6] Đối với ý kiến của kiểm sát viên là có căn cứ pháp luật, phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.

Vì các lẽ trên,

 QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 51; khoản 1 Điều 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Lê Thị Hạnh H được ly hôn với anh Bùi Vĩnh T.

2. Về con chung: Giao con chung Bùi Lê Trúc Q, sinh ngày 02/12/2016 cho chị Lê Thị Hạnh H trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng đến tuổi thành niên (đủ 18 tuổi).

Anh Bùi Vĩnh T có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung 2.000.000 đồng/01 tháng (hai triệu đồng một tháng). Thời hạn cấp dưỡng kể từ khi bản án của Tòa án có hiệu lực pháp luật cho đến khi con chung thành niên (đủ 18 tuổi).

Anh Bùi Vĩnh T có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Lê Thị Hạnh H phải chịu 300.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp theo biên lai số 0003419 ngày 29/3/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh. Chị H đã nộp đủ án phí.

Anh Bùi Vĩnh T phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung.

4. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

153
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

 Bản án 56/2021/HNGĐ-ST ngày 21/07/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:56/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Hạ Long - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 21/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;