Bản án 56/2020/HSST ngày 21/05/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN GÒ VẤP – THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 56/2020/HSST NGÀY 21/05/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 21 tháng 5 năm 2020 tại Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, T phố Hồ Chí Minh mở phiên toà xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 38/2020/HSST ngày 19 tháng 3  năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 44/2020/QĐXXST-HS ngày 27 tháng 4 năm 2020 đối với các bị cáo:

1/Phan Thanh N, giới tính: Nam, sinh năm 1997 tại tỉnh Quảng Nam; Hộ khẩu thường trú và nơi cư trú: K134H37/02 đường Núi T, phường Hòa Thuận Đông, quận Hải Châu, Tp. Đà Nẵng; Quốc tịch : Việt Nam; tôn giáo : không; Nghề nghiệp: không; Trình độ văn hóa: 12/12; Con ông Phan Công Anh (sinh năm 1977) và bà Huỳnh Thị Thanh Thúy (sinh năm 1977); Hoàn cảnh gia đình: chưa có vợ hợp pháp; có 01 con sinh năm 2019; Tiền sự: không; Tiền án: không; Bị cáo bị bắt và tạm giam ngày 15/12/2019 (có mặt).

2/ Huỳnh Ngọc N1, giới tính: Nam, sinh năm 1997 tại tỉnh Sóc Trăng; Hộ khẩu thường trú và nơi cư trú: ấp Dù Tho, xã Tham Đôn, huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng; Quốc tịch : Việt Nam; tôn giáo : không; Nghề nghiệp: không; Trình độ văn hóa: 05/12; Con ông Huỳnh Ngọc Chi (sinh năm 1970) và bà Trần Thị Hạnh (sinh năm 1974); Hoàn cảnh gia đình: chưa có vợ con; Tiền sự: không; Tiền án: không; Bị cáo bị bắt và tạm giam ngày 15/12/2019 (có mặt).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan :

- Bà Sử Thị Quỳnh N1, sinh năm 2000; trú tại : 260 Phan Anh, phường Hiệp Tân, quận Tân Phú (vắng mặt)

- Bà Sử N1 Ý, sinh năm 2000; trú tại : 260 Phan Anh, phường Hiệp Tân, quận Tân Phú (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt N1 sau:

Lúc 00 giờ 05’ ngày 15/12/2019, tại trước nhà số: 114/10/2 đường Dương Quảng Hàm, phường 5, quận Gò Vấp, TP.Hồ Chí Minh, Tổ tuần tra Công an quận Gò Vấp kết hợp với Công an phường 5, quận Gò Vấp tiến hành kiểm tra phát hiện Phan Thanh N và Huỳnh Ngọc N1 đang cất giữ 02 gói nylon chứa tinh thể không màu. N, N1 khai là ma túy tổng hợp nên tiến hành bắt giữ 02 đối tượng cùng tang vật chứng và chuyển đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Gò Vấp thụ lý.

Tại Cơ quan điều tra, N, N1 khai nhận: Vào lúc 22 giờ 00’ngày 14/12/2019, N1 đi xe máy biển số 59P2 – 829.52 đến chỗ ở của N tại B207 lô B, chung cư Khang Gia, phường 14, quận Gò Vấp để chơi. Trong lúc ngồi chơi, N nhận được điện thoại số 0903963902 của một người thanh niên tên D (không rõ lai lịch) hỏi mua ½ hộp năm ma túy tổng hợp (loại Ketamine) với giá là 3.000.000đ. N đồng ý và hẹn đến khu vực nhà thờ Bến Cát, quận Gò Vấp để bán ma túy cho D và nhận tiền. Sau khi nghe điện thoại xong, N nói cho N1 biết có người hỏi mua ma túy và kêu N1 chở N cùng đi mua ma túy về bán lại. N1 đồng ý và lấy xe máy biển số 59P2 – 829.52 chở N cùng đi. Trên đường đi, N kêu N1 gọi điện thoại cho một thanh niên tên T để liên hệ mua ma túy. N1 đồng ý và lấy điện thoại của N1 số 0933399291 gọi vào số 0932579374 của T và hỏi mua ½ hộp năm ma túy tổng hợp (Ketamine) với giá tiền là 2.500.000đ. T đồng ý và hẹn gặp tại khu vực đầu đường Bùi Quang Là, quận Gò Vấp để giao ma túy và nhận tiền. Sau khi gọi điện thoại xong, N1 chở N cùng đi đến chỗ hẹn gặp T. Tại đây, N1 ngồi trên xe, còn N xuống xe đến gặp T, đưa cho T 2.500.000 đồng và nhận 01 gói ma túy tổng hợp (Ketamine). Sau đó, N cất gói ma túy vào túi quần trước bên phải đang mặc và kêu N1 chở N đến khu vực nhà thờ Bến Cát, quận Gò Vấp để bán ma túy cho D N1 đã hẹn. Trên đường đi, N ngồi sau xe lấy gói ma túy ra, chiết một ít cho vào một gói nylon khác và cầm hai gói ma túy bên tay phải. Khi N1 chở N đến trước nhà số 114/10/2 đường Dương Quảng Hàm, phường 5, quận Gò Vấp, TP.Hồ Chí Minh thì bị Công an phát hiện. Do sợ bị phát hiện nên N đã thả 02 gói ma túy xuống dưới đất ngay cạnh chân phải của N, N1ng bị Công an phát hiện bắt quả tang, thu giữ hai gói nylon chứa ma túy tổng hợp N1 đã nêu trên.

Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an quận Gò Vấp đã có Công văn gửi Tổng công ty Viễn Thông Mobifone xác minh chủ thuê bao số điện thoại 0903963902 và 0932579374 của người thanh niên tên D và người thanh niên tên T, hiện chưa có kết quả. Do đó, chưa xác định nhân thân, lai lịch của đối tượng tên T và D, khi nào xác định được sẽ xử lý sau.

Vật chứng vụ án:

- 02 gói nylon chứa tinh thể không màu, đã được niêm phong bên ngoài có chữ kí ghi tên Phan Thanh N, Huỳnh Ngọc N1 và hình dấu của Công an phường 5, quận Gò Vấp; Qua giám định là ma tuý ở thể rắn có khối lượng 1,6156 gam, loại Ketamine. (Kết luận giám định số 09/KLGĐ_H ngày 23/12/2019 của Phòng PC09 – Công an TP.Hồ Chí Minh.

- 01 điện thoại di động hiệu Iphone số sim: 0933399291 là tài sản của Huỳnh Ngọc N1:

- 01 điện thoại di động hiệu Iphone số sim: 0587169918; và 600.000 đồng là tài sản của Phan Thanh N:

- 01 xe gắn máy biển số 59P2 – 829.52. Kết quả xác minh xe do anh Võ An H, sinh năm 1981; Nơi cư trú: 179 đường Hoàng Hoa Thám, phường 13, quận Tân Bình, TP.Hồ Chí Minh; Chỗ ở: 09 đường Phạm Phú Thứ, phường 11, quận Tân Bình, TP.Hồ Chí Minh đúng tên chủ sở hữu. Anh H khai mua chiếc xe trên vào năm 2018. Tháng 8 năm 2019 anh H đã bán chiếc xe trên cho chị Sử Thị Quỳnh N1, sinh năm: 2000, Nơi cư trú: ấp Nhà Máy B, xã Tân Phú, huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau; Chỗ ở: 260 đường Phan Anh, phường Hiệp Tân, quận Tân Phú, TP.Hồ Chí Minh N1ng chưa làm thủ tục sang tên. Chị Sử Thị Quỳnh N1 khai cho em ruột là chị Sử Thị Ý (tên khác là N1 Ý), sinh năm: 2000; Nơi cư trú: ấp Nhà Máy B, xã Tân Phú, huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau; Chỗ ở: 260 đường Phan Anh, phường Hiệp Tân, quận Tân Phú, TP.Hồ Chí Minh mượn để làm phương tiện đi lại. Ngày 14/12/2019, Huỳnh Ngọc N1 gọi điện thoại hỏi mượn xe mô tô của Ý để đi công việc, Ý không biết N1 sử dụng xe để thực hiện hành vi phạm tội. Hiện đã tạm giữ xe trên chờ xử lý theo quy định.

Cơ quan điều tra đã nhập kho vật chứng theo Phiếu nhập kho số 07/PNK ngày 16/01/2020.

Tại bản cáo trạng số 49/Ctr-VKS, ngày 16/3/2019 của Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp đã truy tố bị cáo Phan Thanh N, Huỳnh Ngọc N1 về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Phan Thanh N, Huỳnh Ngọc N1 đã T khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội N1 kết luận điều tra và cáo trạng truy tố.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp sau khi phân tích nội dung vụ án, những tính chất và hậu quả của vụ án đối với xã hội, các tình tiết định tội, định khung hình phạt, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thì vẫn giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1, khoản 5 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi bổ sung năm 2017.

- Xử phạt bị cáo Phan Thanh N mức án từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù.

- Xử phạt bị cáo Huỳnh Ngọc N1 mức án từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù - Phạt bổ sung mỗi bị cáo số tiền từ 5.000.000 đồng tiền Việt nam.

- Tịch thu tiêu hủy 02 lượng ma túy thu giữ - Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Iphone số sim:

0933399291 là tài sản của Huỳnh Ngọc N1 và 01 điện thoại di động hiệu Iphone số sim: 0587169918 là tài sản của Phan Thanh N - Tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 600.000 (sáu trăm nghìn) đồng - Trả lại cho chị Sử Thị Quỳnh N1 01 xe gắn máy biển số 59P2 – 829.52 Qua ý kiến luận tội của đại diện Viện kiểm sát, các bị cáo nhất trí và không có ý kiến tranh luận gì, lời nói sau cùng các bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy N1 sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an quận Gò Vấp, Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Qúa trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Lời khai của các bị cáo hoàn toàn phù hợp với Biên bản phạm tội quả tang, lời khai của người làm chứng, cùng với tang vật đã thu giữ, phù hợp với kết luận điều tra của cơ quan Công an quận Gò Vấp, với bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp và với các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Tại Kết luận giám định số 09/KLGĐ-H ngày 23/12/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an T phố Hồ Chí Minh kết luận: 02 gói nylon chứa tinh thể không màu, đã được niêm phong bên ngoài có chữ kí ghi tên Phan Thanh N, Huỳnh Ngọc N1 và hình dấu của Công an phường 5, quận Gò Vấp; Qua giám định là ma tuý ở thể rắn có khối lượng 1,6156 gam, loại Ketamine Từ những cơ sở trên, Hội đồng xét xử thấy có đủ cơ sở pháp lý để cho rằng hành vi của Phan Thanh N, Huỳnh Ngọc N1 đã phạm vào tội “ Mua bán trái phép chất ma túy” tội phạm và hình phạt trừng trị được quy định tại Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015, đã được sửa đổi bổ sung năm 2017 N1 Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp đã truy tố.

[3] Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Bởi lẽ, đã xâm phạm đến sự quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý, đã xâm phạm và làm ảnh hưởng đến chính sách quản lý kinh tế, an ninh quốc gia, gây mất trật tự trị an xã hội.

Xét, đây là vụ án có đồng phạm N1ng thuộc trường hợp đồng phạm giản đơn. Bị cáo N là người trực tiếp liên hệ với các đối tượng mua bán ma túy để cùng với bị cáo N1 thực hiện hành vi phạm tội. Mặc dù cả hai bị cáo nhận thức được việc mua bán, vận chuyển trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, bị pháp luật nghiêm cấm, N1ng do lười lao động, cần tiền tiêu xài cá nhân, các bị cáo vẫn ngang nhiên mua bán trái phép chất ma tuý bất chấp những quy định của pháp luật, bất chấp mọi hậu quả xảy ra kể cả việc trừng trị của pháp luật. Vì vậy, cần thiết phải có mức hình phạt thật nghiêm khắc đối với các bị cáo. Trong vụ án này, bị cáo N là người khởi xướng và trực tiếp liên hệ với các đối tượng để mua, bán ma túy và cùng bị cáo N1 thực hiện hành vi phạm tội nên mức hình phạt của bị cáo N phải cao hơn bị cáo N1. Hội đồng xét xử xét thấy, cần thiết phải cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm tạo điều kiện cho các bị cáo từ bỏ việc mua bán ma túy phấn đấu trở T người tốt hơn sau này biết tôn trọng pháp luật đồng thời cũng nhằm răn đe, phòng ngừa tội phạm chung.

[4] Tuy nhiên, khi lượng hình cần xem xét cho các bị cáo một số tình tiết: Tại cơ quan điều tra cũng N1 qua diễn biến phiên tòa hôm nay các bị cáo đã thật thà khai báo, T khẩn nhận tội, các bị cáo đều chưa có tiền án tiền sự để xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo.

[5] Về hình phạt bổ sung quy định tại khoản 5 Điều 251 của Bộ luật hình sự, xét tính chất vụ án, các bị cáo mua và bán ma túy cho người khác với mục đích kiếm lời nên Hội đồng xét xử phạt bổ sung, mỗi bị cáo phải nộp phạt khoản tiền 10.000.000 đồng để sung quỹ Nhà nước.

Đối với các đối tượng tên D và tên T, cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an quận Gò Vấp đã có Công văn gửi Tổng công ty Viễn Thông Mobifone xác minh chủ thuê bao số điện thoại 0903963902 và 0932579374 của người thanh niên tên D và người thanh niên tên T, hiện chưa có kết quả. Do chưa xác định nhân thân, lai lịch của đối tượng tên T và D nên chưa có cơ sở xử lý, khi nào xác định được sẽ xử lý sau.

[6] Về xử lý vật chứng:

- 02 gói nylon chứa tinh thể không màu, đã được niêm phong bên ngoài có chữ kí ghi tên Phan Thanh N, Huỳnh Ngọc N1 và hình dấu của Công an phường 5, quận Gò Vấp; Qua giám định là ma tuý ở thể rắn có khối lượng 1,6156 gam, loại Ketamine là ma túy tổng hợp Nhà nước cấm lưu hành, Hội đồng xét xử quyết định tịch thu tiêu hủy.

- 01 điện thoại di động hiệu Iphone số sim: 0933399291 là tài sản của Huỳnh Ngọc N1 và 01 điện thoại di động hiệu Iphone số sim: 0587169918 là tài sản của Phan Thanh N. Xét, cả 02 chiếc điện thoại trên các bị cáo dùng để liên lạc thực hiện hành vi phạm tội nên Hội đồng xét xử quyết định tịch thu sung quỹ Nhà nước.

- Số tiền 600.000 đồng, bị cáo N khai số tiền này là tiền lời có được từ việc bán ma túy mà có. Xét, đây là số tiền thu lợi bất chính nên Hội đồng xét xử quyết định tịch thu sung quỹ Nhà nước.

- 01 xe gắn máy biển số 59P2 – 829.52. Kết quả xác minh xe do anh Võ An H, sinh năm 1981 đứng tên chủ sở hữu. Anh H khai mua chiếc xe trên vào năm 2018. Tháng 8 năm 2019 anh H đã bán chiếc xe trên cho chị Sử Thị Quỳnh N1, sinh năm 2000 N1ng chưa làm thủ tục sang tên. Chị Sử Thị Quỳnh N1 khai cho em ruột là chị Sử Thị Ý (tên khác là N1 Ý), sinh năm 2000 mượn để làm phương tiện đi lại. Ngày 14/12/2019, Huỳnh Ngọc N1 gọi điện thoại hỏi mượn xe mô tô của Ý để đi công việc. Xét, việc bị cáo N1 sử dụng chiếc xe của chị Ý để thực hiện hành vi phạm tội chị Ý không biết nên Hội đồng xét xử quyết định trả lại chiếc xe trên cho người sử dụng hợp pháp là chị Sử Thị Quỳnh N1.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Phan Thanh N, bị cáo Huỳnh Ngọc N1 phạm tội “ Mua bán trái phép chất ma túy”:

Áp dụng khoản 1, khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi bổ sung năm 2017:

Xử phạt bị cáo Phan Thanh N 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù.

Xử phạt bị cáo Huỳnh Ngọc N1 02 (hai) năm tù.

Thời hạn tù tính từ ngày 15/12/2019 Buộc bị cáo N và bị cáo N1, mỗi bị cáo phải nộp phạt số tiền 10.000.000 (mười triệu) đồng để sung quỹ Nhà nước Áp dụng Điều 46, 47 Bộ luật Hình sự và khỏan 1, 2, 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy 02 gói nylon chứa tinh thể không màu, đã được niêm phong bên ngoài có chữ kí ghi tên Phan Thanh N, Huỳnh Ngọc N1 và hình dấu của Công an phường 5, quận Gò Vấp - Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Iphone số sim: 0933399291 và 01 điện thoại di động hiệu Iphone số sim: 0587169918.

- Tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 600.000 (sáu trăm nghìn) đồng - Trả lại cho chị Sử Thị Quỳnh N1 01 xe gắn máy biển số 59P2 – 829.52 (Theo Phiếu nhập kho vật chứng số 07/PNK ngày 16/01/2020 của Công an quận Gò Vấp) Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 ; Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13, ngày 25/11/2015 của Quốc Hội và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án:

Mỗi bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (hai trăm ngàn) đồng. Các bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan thời hạn kháng cáo là 15 ngày kể từ ngày được tống đạt hợp lệ bản án.

Căn cứ Điều 26 của Luật Thi hành án dân sự năm 2008:

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 của Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

243
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 56/2020/HSST ngày 21/05/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:56/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Gò Vấp - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;