TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN AN MINH, TỈNH KIÊN GIANG
BẢN ÁN 56/2020/HNGĐ-ST NGÀY 31/08/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON, CẤP DƯỠNG
Ngày 31 tháng 8 năm 2020 tại phòng xử án Tòa án nhân dân huyện An Minh, tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 132/2020/TLST-HNGĐ ngày 18-5-2020 về tranh chấp “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con, về cấp dưỡng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 86/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 28 tháng 7 năm 2020 và quyết định hoãn phiên tòa số: 67/2020/QĐST-HNGĐ ngày 13/8/2020 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Ngô Thị Trúc H, sinh năm 1985 (Vắng mặt nhưng có đơn đề nghị xét xử vắng mặt)
Địa chỉ: Tổ 02, ấp I, xã T, huyện Kiên Hải, tỉnh Kiên Giang
2. Bị đơn: Anh Trần Minh D, sinh năm 1980 (Vắng mặt)
Địa chỉ: khu phố B, thị trấn A, huyện An Minh, tỉnh Kiên Giang.
NỘI DUNG VỤ ÁN
1 * Tại đơn khởi kiện xin ly hôn đề ngày 13/5/2020, biên bản lấy lời khai ngày 09/7/2020 và đơn đề nghị xét xử vắng mặt nguyên đơn chị Ngô Thị Trúc H trình bày:
Chị và anh Trần Minh D chung sống với nhau năm 2016, có ký kết hôn và đã được cấp giấy chứng nhận kết hôn. Quá trình chung sống vợ chồng thật sự hạnh phúc chỉ được hơn 01 năm thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do anh D ghen tuông vô cớ nên dẫn đến vợ chồng thường xuyên cãi nhau, có lần trong lúc cãi nhau anh D có đánh chị bằng tay, mâu thuẫn vợ chồng ngày càng nhiều, không thể khắc phục được nên vợ chồng thật sự ly thân nhau từ tháng 4 năm 2018 đến nay. Từ khi ly thân đến nay vợ chồng không còn liên lạc gì qua lại với nhau.
Hiện chị đang công tác tại UBND xã T nên thu nhập ổn định mỗi tháng hơn 7.000.000 đồng.
Về con: Vợ chồng có 01 đứa con chung tên Trần Minh H, sinh ngày 09/9/2017 hiện chị đang trực tiếp nuôi.
Về tài sản: Vợ chồng không tài sản chung.
Về nợ: Vợ chồng không nợ chung tài sản gì đối với ai khác cũng không ai nợ vợ chồng.
Nay yêu cầu Tòa án giải quyết:
- Về quan hệ hôn nhân: Xin ly hôn anh Trần Minh D;
- Về quan hệ nuôi con chung: Yêu cầu được trực tiếp nuôi con, không yêu cầu anh D cấp dưỡng nuôi con sau khi vợ chồng ly hôn;
- Về quan hệ tài sản chung: Vợ chồng không tài sản chung, không tranh chấp nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
- Về quan hệ nợ chung: Vợ chồng không nợ chung tài sản gì đối với ai khác cũng không ai nợ vợ chồng, không tranh chấp nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
* Tại phiên tòa:
- Nguyên đơn chị Ngô Thị Trúc H vắng mặt nhưng đã có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.
- Bị đơn anh Trần Minh D vắng mặt lần thứ hai, không lý do mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ.
- Đại diện viện kiểm sát phát biểu ý kiến:
+ Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng nguyên đơn chị Ngô Thị Trúc H trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự; đối với người tham gia tố tụng bị đơn anh Trần Minh D trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là chưa đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự, cụ thể như không tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải và tham gia phiên tòa xét xử;
+ Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét những vấn đề cụ thể như sau, về hôn nhân, cho chị Ngô Thị Trúc H ly hôn anh Trần Minh D; về nuôi con chung, giao Trần Minh H, sinh ngày 09/9/2017 là con chung của hai người cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng, anh D không cấp dưỡng nuôi con cùng chị H; về tài sản chung và về nợ chung, không có tranh chấp nên không xem xét.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử (HĐXX) nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng: Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tống đạt Thông báo cho bị đơn anh Trần Minh D biết và quy định thời gian để bị đơn có ý kiến về việc khởi kiện “ly hôn, tranh chấp về nuôi con, về cấp dưỡng” của nguyên đơn chị Ngô Thị Trúc H. Nhưng bị đơn anh D không có ý kiến gì và cũng không cung cấp chứng cứ gì để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Do đó, Tòa án vẫn tiến hành việc giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật. Sau đó, Tòa án tiến hành Thông báo phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, đồng thời đã tống đạt hợp lệ cho bị đơn anh D, mặc dù đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà bị đơn anh D vẫn cố tình vắng mặt không lý do. Như vậy, được xác định đây là vụ án thuộc trường hợp không tiến hành hòa giải được theo quy định tại khoản 1 Điều 207 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015: “Bị đơn,........đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn cố tình vắng mặt”.
Nên Tòa án quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục chung và đã tống đạt hợp lệ Quyết định đưa vụ án ra xét xử cho bị đơn anh Trần Minh D, nhưng bị đơn anh D vắng mặt không có lý do nên HĐXX phải hoãn phiên tòa. Quyết định hoãn phiên tòa để mở phiên tòa xét xử lần thứ hai đã được tống đạt hợp lệ cho bị đơn anh D, nhưng bị đơn anh D vẫn vắng mặt không có lý do, đồng thời tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn chị Ngô Thị Trúc H có đơn đề nghị xét xử vắng mặt nên HĐXX vẫn tiến hành xét xử vụ án theo quy định tại khoản 2 Điều 227, Điều 228, Điều 238 và Điều 241 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
[2] Về nội dung:
- Về quan hệ hôn nhân: Chị Ngô Thị Trúc H và anh Trần Minh D khi tổ chức hôn nhân, anh chị tự nguyện lấy nhau làm vợ chồng, đủ tuổi, có đăng ký kết hôn và đã được Ủy ban nhân dân xã T cấp giấy chứng nhận kết hôn ngày 30/12/2016. Quan hệ hôn nhân giữa chị H và anh D là hôn nhân hợp pháp phù hợp theo qui định tại các điều 8, 9 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.
Xét yêu cầu xin ly hôn của chị Ngô Thị Trúc H thấy rằng: Theo chị H trình bày cùng các tài liệu có trong hồ sơ thể hiện thì mâu thuẫn vợ chồng phát sinh là do anh D ghen tuông vô cớ dẫn đến vợ chồng thường xuyên cãi nhau, có lần cãi nhau anh D có đánh chị bằng tay, chị H đã cố gắng nhẫn nhịn nhưng anh D vẫn không thay đổi tính tình làm cho mâu thuẫn vợ chồng càng nhiều, không thể khắc phục được và thực tế vợ chồng đã ly thân nhau một thời gian dài từ tháng 4 năm 2018 đến nay.
Qua kết quả xác minh, thu thập chứng cứ thì tình trạng mâu thuẫn vợ chồng của chị H và D là có thật, và thực tế vợ chồng từ khi ly thân nhau đến nay không ai còn quan tâm đên ai là phù hợp với lời trình bày của chị H nêu trên (Bút lục số 29).
Từ những phân tích, đánh giá trên cho thấy anh D đã vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ chồng làm cho mối quan hệ hôn nhân giữa hai bên không khả năng đoàn tụ, tình trạng hôn nhân trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị H đối với anh D theo quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.
- Về quan hệ nuôi con chung: Theo chị H, vợ chồng có 01 con chung tên Trần Minh H, sinh ngày 09/9/2017 hiện đang sống chung với chị. Khi ly hôn, chị yêu cầu trực tiếp nuôi con, không yêu cầu anh D cấp dưỡng nuôi con cùng chị sau khi vợ chồng ly hôn.
Nội dung này đã được Tòa án nêu rõ trong thông báo thụ lý vụ án và đã tống đạt hợp lệ cho anh D, nhưng anh D vẫn không có ý kiến phản bác gì đối với ý kiến của chị H nêu ra và cũng không có yêu cầu gì khác. Đồng thời, cháu Trần Minh H đến thời điểm này vẫn chưa đủ 36 tháng tuổi nên rất cần được sự quan tâm, chăm sóc đặc biệt của người mẹ và kể từ khi ly thân cho đến nay con do chị H trực tiếp nuôi, phát triển bình thường như bao đứa trẻ khác. Vì vậy, cần giao cháu Trần Minh H, sinh ngày 09/9/2017 cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng sau khi chị H và anh D ly hôn là phù hợp theo quy định tại khoản 3 Điều 81 Luật hôn nH và gia đình năm 2014. Việc chị H không yêu cầu anh D cấp dưỡng nuôi con cùng chị sau khi vợ chồng ly hôn là tự nguyện, hơn nữa theo ý kiến của chị H nêu ra và chứng cứ thu thập được thì hiện nay chị có nghề nghiệp và có thu nhập ổn định nên có đầy đủ khả năng, điều kiện nuôi dưỡng con chung, do đó anh D không phải cấp dưỡng nuôi con cùng chị H.
- Về cấp dưỡng nuôi con: Khi gửi đơn khởi kiện ly hôn và được Tòa án thụ lý thì chị H yêu cầu anh D cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.000.000 đồng, phương thức cấp dưỡng hàng tháng, nhưng trong qua trình giải quyết vụ án chị H xác định hiện nay chị có nghề nghiệp và có thu nhập ổn định nên có đầy đủ khả năng, điều kiện nuôi dưỡng con chung, do đó anh D không phải cấp dưỡng nuôi con cùng chị, đồng thời xin rút yêu cầu cấp dưỡng nuôi con theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 217 Bộ luật tố tụng dân sự, bị đơn anh D không có yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn chị H. Việc nguyên đơn chị H rút phần yêu cầu khởi kiện cấp dưỡng nuôi con đối với bị đơn anh D là hoàn toàn tự nguyện, không trái quy định pháp luật và đạo đức xã hội, nên cần đình chỉ giải quyết phần yêu cầu khởi kiện cấp dưỡng nuôi con của nguyên đơn chị H đối với anh D.
- Về quan hệ tài sản chung và về quan hệ nợ chung: Theo chị H vợ chồng không tài sản chung, không nợ chung tài sản gì đối với ai khác cũng không ai nợ vợ chồng, không tranh chấp nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Ý kiến của chị H về tài sản chung và nợ như trên, Tòa án đã nêu trong Thông báo về việc thụ lý vụ án để anh D biết, nhưng đến nay anh D không có ý kiến gì phản bác ý kiến của chị H và cũng không có yêu cầu gì khác. Như vậy, khi Tòa án giải quyết vụ án này thì các đương sự (chị H, anh D) không có tranh chấp và yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản chung và nợ, do đó HĐXX không xem xét giải quyết.
[3] Về án phí: Nguyên đơn chị Ngô Thị Trúc H có đơn yêu cầu xin ly hôn nên chị H phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm xin ly hôn.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 4 Điều 147, điểm c khoản 1 Điều 217, khoản 2 Điều 227, Điều 228, Điều 238 và Điều 241 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Áp dụng Điều 56, khoản 3 Điều 81, khoản 3 Điều 82 Luật hôn nH và gia đình năm 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án,
Tuyên xử:
1 - Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Ngô Thị Trúc H ly hôn anh Trần Minh D.
2 - Về quan hệ nuôi con chung: Giao con chung Trần Minh H, sinh ngày 09/9/2017 cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng, anh D không cấp dưỡng nuôi con cùng chị H sau khi vợ chồng ly hôn.
Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con, không ai được cản trở. Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.
3 - Về cấp dưỡng nuôi con: Đình chỉ giải quyết yêu cầu khởi kiện cấp dưỡng nuôi con của nguyên đơn chị Ngô Thị Trúc H đối với bị đơn anh Trần Minh D.
4 - Về quan hệ tài sản chung và về quan hệ nợ chung: Không xem xét.
5 - Về án phí: Chị Ngô Thị Trúc H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm xin ly hôn là 300.000 đồng, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai số 0007825 ngày 13 tháng 5 năm 2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện An Minh; chị H đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.
Đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày bản án được giao hoặc niêm yết hợp lệ.
Trường hợp bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 56/2020/HNGĐ-ST ngày 31/08/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con, cấp dưỡng
Số hiệu: | 56/2020/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện An Minh - Kiên Giang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 31/08/2020 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về