Bản án 56/2020/HNGĐ-ST ngày 20/08/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ TRẢNG BÀNG, TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 56/2020/HNGĐ-ST NGÀY 20/08/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON 

Ngày 20 tháng 8 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 174/2020/TLST-HNGĐ ngày 13 tháng 5 năm 2020 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 67/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 23 tháng 7 năm 2020; giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Phạm Thị Phúc H, sinh năm 1988 - Có mặt;

Địa chỉ: Ấp L N, xã L H, huyện Bình Đại, tỉnh Bến Tre.

- Bị đơn: Anh Lê Thanh H, sinh năm 1984 – Vắng mặt.

Địa chỉ hộ khẩu thường trú: Ấp L N, xã L H, huyện Bình Đại, tỉnh Bến Tre.

Địa chỉ tạm trú: Khu phố G L, phường G L, thị xã Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án, nguyên đơn chị Phạm Thị Phúc H trình bày:

Chị và anh H chung sống với nhau từ năm 2010, có tổ chức lễ cưới, có đăng ký kết hôn năm 2010 tại Ủy ban nhân dân xã G L (nay là phường G L). Sau khi cưới vợ chồng sống chung với cha mẹ chị H tại Bến Tre. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn, anh H bỏ về nhà cha mẹ ruột sống tại ấp G L, xã G L, huyện Trảng Bàng (nay là khu phố G L, phường G L, thị xã Trảng Bàng), tỉnh Tây Ninh và vợ chồng ly thân đến nay. Nguyên nhân mâu thuẫn là do chị và anh H cùng đi làm, nhưng khi về nhà thì anh H không phụ giúp chị việc nhà và chăm con. Mỗi lần vợ chồng cãi nhau anh H đều dùng những lời lẽ thô tục mắng chửi chị, thậm chí có lần anh H còn uống thuốc tự tử. Từ khi ly thân, chị và anh H không ai đặt vấn đề đoàn tụ, anh H cũng không phụ chị chi phí nuôi con.

Nay chị yêu cầu được ly hôn anh H.

Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung tên Lê Phạm Thanh H, sinh ngày 26-4-2011, hiện đang theo sống với chị. Khi ly hôn, chị yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng cháu H, không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Không yêu cầu giải quyết.

Về nợ chung: Không có, không yêu cầu giải quyết.

Theo các lời khai và trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn anh Lê Thanh H trình bày:

Anh H trình bày thống nhất với chị H về thời gian chung sống, ly thân, con chung, tài sản chung, nợ chung. Về nguyên nhân vợ chồng mâu thuẫn nhau theo anh thấy không có gì lớn nhưng mỗi lần cãi nhau chị H thường đòi ly hôn với anh, đuổi anh đi, anh giận quá nên mới uống thuốc tự tử. Năm 2019 là do chị H đuổi anh đi nên anh mới về nhà cha mẹ ruột sống để đi làm. Lý do anh không phụ chị H chi phí nuôi con là do anh mới đi làm, lương còn thấp và anh còn nuôi mẹ già.

Nay anh yêu cầu đoàn tụ vì anh thương con, không muốn ảnh hưởng đến cuộc sống của con. Nếu Tòa giải quyết cho vợ chồng ly hôn, anh có yêu cầu như sau:

Về con chung: Anh yêu cầu giao cháu Lê Phạm Thanh H, sinh ngày 26-4-2011 cho chị H tiếp tục nuôi dưỡng, anh không cấp dưỡng nuôi con

Về tài sản chung: Không yêu cầu giải quyết.

Về nợ chung: Không có, không yêu cầu giải quyết.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh:

- Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa, nguyên đơn thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự. Riêng bị đơn không thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự về quyền và nghĩa vụ của bị đơn.

- Về quan điểm giải quyết vụ án:

Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1 Điều 56, Điều 81, 82 của Luật Hôn nhân và gia đình xem xét quyết định:

Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu của chị Phạm Thị Phúc H yêu cầu được ly hôn anh Lê Thanh H. Về con chung: Giao cháu Lê Phạm Thanh H, sinh ngày 26-4-2011 cho chị H tiếp tục nuôi dưỡng. Ghi nhận chị H không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Không đặt ra giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát, xét thấy:

[1] Về tố tụng: Anh Lê Thanh H vắng mặt tại phiên tòa mặc dù đã được Toà án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm b, khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng Dân sự tiến hành xét xử vụ án.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị H và anh H chung sống với nhau vào năm 2010, có đăng ký kết hôn vào năm 2010 tại Ủy ban nhân dân xã G L (nay là phường G L) nên được thừa nhận là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do anh H không phụ giúp chị H việc nhà và chăm con nên vợ chồng thường cãi nhau, mỗi lần cãi nhau anh H dùng lời lẽ thô tục mắng chửi chị H, chị H nhiều lần nói sẽ ly hôn anh H và đuổi anh H đi nên anh H uống thuốc tự tử. Vợ chồng ly thân từ năm 2019 đến nay mà không ai đặt vấn đề đoàn tụ. Nay chị H yêu cầu ly hôn anh H nhưng anh H yêu cầu đoàn tụ. Hội đồng xét xử xét thấy, từ khi chị H và anh H ly thân, anh H không đặt vấn đề đoàn tụ với chị H và cũng không phụ chị H chi phí nuôi con. Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án mời anh H tham gia hòa giải, tham gia phiên tòa nhưng anh H không đến cho thấy anh H không có thiện chí hàn gắn cùng chị H. Qua xác minh tại địa phương nơi anh H và chị H chung sống thể hiện: Giữa anh H và chị H thường cãi nhau về chuyện tiền bạc, có lần anh H bức xúc nên uống thuốc tự tử và bỏ nhà đi từ đầu năm 2020 đến nay. Từ đó cho thấy, mâu thuẫn giữa chị H và anh H trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, có cơ sở chấp nhận yêu cầu của chị H được ly hôn anh H theo quy định tại khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[3] Về con chung: Cháu Lê Phạm Thanh H, sinh ngày 26-4-2011 hiện đang theo sống với chị H từ khi chị H và anh H ly thân đến nay. Nay chị H yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng cháu H, anh H cũng đồng ý giao cháu H cho chị H nuôi dưỡng. Tòa án đã tiến hành hỏi ý kiến cháu H, cháu cũng có nguyện vọng được theo sống với chị H. Do đó, Hội đồng xét xử giao chị H tiếp tục nuôi dưỡng cháu H là phù hợp với Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình. Ghi nhận chị H không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con.

[4] Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu giải quyết nên không đặt ra giải quyết.

[5] Như phân tích trên thì đề nghị của Viện kiểm sát về quan điểm giải quyết vụ án là có cơ sở chấp nhận.

[6] Án phí: Chị H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về việc ly hôn theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm b, khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng Dân sự;

Căn cứ vào khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82 của Luật Hôn nhân và gia đình; điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về hôn nhân: Chị Phạm Thị Phúc H được ly hôn anh Lê Thanh H.

2. Về con chung: Giao chị Phạm Thị Phúc H tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu Lê Phạm Thanh H, sinh ngày 26-4-2011.

Ghi nhận chị H không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con.

Anh H có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Không đặt ra giải quyết.

4. Án phí: Chị Phạm Thị Phúc H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về việc ly hôn là 300.000 (ba trăm nghìn) đồng, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 300.000 (ba trăm nghìn) đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0018099 ngày 13 tháng 5 năm 2020 của Chi cục thi hành án dân sự thị xã Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh; chị H đã nộp đủ án phí.

5. Báo cho chị H biết có quyền kháng cáo lên Toà án nhân dân tỉnh Tây Ninh trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Anh H vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

159
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 56/2020/HNGĐ-ST ngày 20/08/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:56/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Trảng Bàng - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 20/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;