Bản án 56/2020/HNGĐ-ST ngày 15/09/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ P, TỈNH GIA LAI

BẢN ÁN 56/2020/HNGĐ-ST NGÀY 15/09/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 15 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố P, tỉnh Gia Lai xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 254/2020/TLST- HNGĐ ngày 08 tháng 5 năm 2020 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 71/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 14 tháng 8 năm 2020, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Mỹ H, sinh năm 1992 Địa chỉ: Thôn 5, xã A, thành phố P, tỉnh Gia Lai. Có mặt.

2. Bị đơn: Anh Lê Xuân T, sinh năm 1989 Địa chỉ: Thôn 4, xã A, thành phố P, tỉnh Gia Lai. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 21 tháng 4 năm 2020, bản tự khai và trong quá trình giải quyết vụ án, cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn là chị Nguyễn Thị Mỹ H trình bày:

Chị và anh Lê Xuân T tự nguyện đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã A, thành phố P, tỉnh Gia Lai vào ngày 28/12/2012. Trong quá trình chung sống vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm, vợ chồng thường xuyên cãi nhau, không có tiếng nói chung, đời sống hôn nhân không hạnh phúc, anh T cờ bạc, nợ nần, đã được gia đình anh T hòa giải nhưng vợ chồng chị không hàn gắn được, đã sống ly thân từ tháng 01 năm 2019 đến nay. Hiện nay không ai còn quan tâm gì đến cuộc sống của nhau, vợ chồng không còn yêu thương, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ lẫn nhau để cùng xây dựng gia đình hạnh phúc nên không thể kéo dài cuộc sống chung với nhau được, do vậy chị H yêu cầu Tòa án giải quyết:

Về quan hệ hôn nhân: Yêu cầu giải quyết cho chị được ly hôn với anh Lê Xuân T.

Về con chung: Chị và anh Lê Xuân T có 02 con chung là cháu Lê Trần Bảo N, sinh ngày 14/5/2013 và cháu Lê Nguyễn Đông A, sinh ngày 14/12/2016. Ly hôn chị yêu cầu Tòa án giao cho chị được nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục 02 con chung cho đến khi con thành niên và tự lập được; về cấp dưỡng nuôi con thì chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung và nghĩa vụ chung: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn anh Lê Xuân T mặc dù đã được Tòa án thông báo về việc thụ lý vụ án, nhiều lần Tòa án thông báo đến hòa giải, triệu tập tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt không có lý do, nên đã không trình bày được quan điểm của anh đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án và đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Mỹ H về yêu cầu ly hôn với anh Lê Xuân T và giao cháu cháu Lê Trần Bảo N, sinh ngày 14/5/2013 và cháu Lê Nguyễn Đông A, sinh ngày 14/12/2016 cho chị Nguyễn Thị Mỹ H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi cháu thành niên và tự lập được. Chị H phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, nghe lời trình bày của nguyên đơn tại phiên tòa, ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Nguyên đơn chị Nguyễn Thị Mỹ H yêu cầu ly hôn và tranh chấp về nuôi con với anh Lê Xuân T, sinh năm 1989, trú tại: Thôn 4, xã A, thành phố P, tỉnh Gia Lai. Theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự, thì đây là vụ án về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”, thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố P, tỉnh Gia Lai.

[2] Bị đơn anh Lê Xuân T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt. Căn cứ vào quy định tại khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt bị đơn.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Mỹ H và anh Lê Xuân T tự nguyện kết hôn và có đăng ký kết hôn theo đúng quy định của pháp luật nên đây là hôn nhân hợp pháp. Mâu thuẫn hôn nhân theo chị H trình bày sau khi kết hôn chị và anh T đã bất đồng quan điểm, thường xuyên cải vã, đời sống hôn nhân không hạnh phúc, anh T cờ bạc, nợ nần, đã được gia đình anh T hòa giải nhưng vợ chồng vẫn mâu thuẫn gay gắt, đã sống ly thân từ tháng 01 năm 2019 cho đến nay. Qua xác minh tại chính quyền địa phương nơi anh T cư trú thì hiện nay anh T đang sống cùng cha mẹ ruột; anh T và chị H không thông báo, không yêu cầu chính quyền địa phương hòa giải nên chính quyền địa phương không biết mâu thuẫn của vợ chồng anh T và chị H. Bị đơn anh T mặc dù đã được Tòa án thông báo về việc thụ lý vụ án, triệu tập nhiều lần đến để tham gia hòa giải, xét xử nhưng anh T không đến, thể hiện thái độ bỏ mặc, không quan tâm đến việc tiếp tục duy trì cuộc sống vợ chồng với chị H. Hội đồng xét xử xét thấy chị H và anh T đã không còn chung sống với nhau, không ai quan tâm lo lắng, chăm sóc cho nhau, tình trạng hôn nhân giữa chị H và anh T như vậy là trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị H theo quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

[4] Về việc nuôi con: Chị H và anh T có 02 con chung là cháu Lê Trần Bảo N, sinh ngày 14/5/2013 và cháu Lê Nguyễn Đông A, sinh ngày 14/12/2016, hiện nay các con đang sống cùng chị H. Ngày 15/6/2020 cháu N có đơn trình bày có nguyện vọng ở với chị H, cháu A trên 3 tuổi, xét chị H đang trong độ tuổi lao động, có công việc, thu nhập ổn định, đảm bảo đủ điều kiện để trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu Ngân, cháu A; anh T không đưa ra ý kiến phản đối. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị H, giao con chung là cháu N và cháu A cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp quy định tại Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[5] Về cấp dưỡng nuôi con: Chị H không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Chị H không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Về án phí: Chị H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

Áp dụng khoản 1 Điều 56, các Điều 57, 81, 82, 83, 84 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Mỹ H, cụ thể như sau:

1. Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Mỹ H ly hôn với anh Lê Xuân T.

2. Về việc nuôi con: Giao cho chị Nguyễn Thị Mỹ H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu Lê Trần Bảo N, sinh ngày 14/5/2013 và cháu Lê Nguyễn Đông A, sinh ngày 14/12/2016 cho đến khi thành niên hoặc đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Nếu người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Trên cơ sở lợi ích của con, các đương sự có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc thay đổi mức cấp dưỡng nuôi con.

3. Về án phí: Chị Nguyễn Thị Mỹ H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng), được trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng, theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0004954 ngày 08 tháng 5 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố P. Chị Nguyễn Thị Mỹ H đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án, nguyên đơn có quyền làm đơn kháng cáo bản án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai giải quyết lại theo thủ tục phúc thẩm. Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ hoặc được niêm yết công khai.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

188
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 56/2020/HNGĐ-ST ngày 15/09/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:56/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Pleiku - Gia Lai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;