Bản án 56/2019/HS-ST ngày 23/08/2019 về tội đánh bạc

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN 2 - THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 56/2019/HS-ST NGÀY 23/08/2019 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 23 tháng 8 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân Quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh (số 1400 đường Đồng Văn Cống, phường Thạnh Mỹ Lợi, Quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh) đã xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 51/2019/HSST ngày 29/7/2019 theo Quyết định đưa vụ ra xét xử số 62/2019/QĐXXST-HS ngày 07/8/2019 đối với bị cáo:

Phạm Tấn N, sinh năm: 1977; tại: tỉnh Trà Vinh; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: 11/1D Đường A, Tổ B, Khu phố C, phường D, Quận E, Thành phố Hồ Chí Minh; chỗ ở hiện nay: Như trên; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ văn hóa: 8/12; nghề nghiệp: Giữ xe; con ông Phạm Văn B (chết) và bà Huỳnh Thị H (chết); bị cáo có vợ Đặng Thị Hồng P, sinh năm 1978 và 02 con (lớn sinh năm 2001 và nhỏ sinh năm 2006); tiền án: Không; tiền sự: Ngày 14/01/2019, bị Công an phường Bình An, Quận 2 xử phạt vi phạm hành chính số tiền 1.500.000 đồng về hành vi “Đánh bạc”.

Bị cáo tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 14 giờ 00 phút ngày 18/4/2019, tại bãi đất trống (địa chỉ: Đường A, Khu phố B, phường C, Quận D, Công an phường Bình An, Quận 2) bắt quả tang Phạm Tấn N (sinh năm: 1977), Nguyễn Khoa B (sinh năm: 1981), Lê Hữu A (sinh năm: 1987) và Lê Anh T (sinh năm: 1958) đang đánh bài dạng “Binh xập xám” ăn thua bằng tiền.

Tại Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an Quận 2, các đối tượng khai nhận: N mang theo số tiền 530.000 đồng, B mang theo số tiền 500.000 đồng, A mang theo số tiền 120.000 đồng, T mang theo số tiền 260.000 đồng để đánh bài (loại bài tây 52 lá), kiểu chơi “Binh xập xám” ăn thua bằng tiền, mỗi ván ăn thua với nhau 20.000 đồng, người nào thắng thì ăn tiền của người thua. Khi các đối tượng đang chơi thì bị Công an phường Bình An, Quận 2 bắt quả tang.

Vật chứng thu giữ gồm: 01 bộ bài tây 52 lá và số tiền 1.410.000 đồng.

Qua xác minh nhân thân, lai lịch thì Lê Hữu A, Nguyễn Khoa B, Lê Anh T chưa có tiền án, tiền sự; số tiền dùng để đánh bạc dưới 5.000.000 đồng, chưa đủ định lượng để xử lý hình sự nên chuyển Công an phường Bình An, Quận 2 xử phạt vi phạm hành chính.

Đối với Phạm Tấn N, ngày 07/01/2019 đã có hành vi tham gia đánh bạc ăn thua bằng tiền và bị Công an phường Bình An, Quận 2 ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 05521/QĐ-XPVPHC ngày 14/01/2019 (đã đóng tiền phạt theo B lai thu số 0001208 ngày 29/01/2019). Đến ngày 18/4/2019, N tiếp tục thực hiện hành vi đánh bạc ăn thua bằng tiền nên hành vi của Phạm Tấn N đủ yếu tố cấu thành tội “Đánh bạc” quy định tại Điều 321 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi của mình như trên, đồng ý với kết luận điều tra, cáo trạng và không có ý kiến gì khác.

Bản Cáo trạng số 52/CT-VKSQ2 ngày 23 tháng 7 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân Quận 2 đã truy tố bị cáo Phạm Tấn N về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận:

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như cáo trạng đã nêu. Đây là vụ án do Phạm Tấn N thực hiện hành vi đánh bạc ăn thua bằng tiền với Lê Hữu A, Nguyễn Khoa B, Lê Anh T, mặc dù số tiền dùng để đánh bạc dưới 5.000.000 đồng nhưng do Phạm Tấn N đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này, chưa hết thời hạn 01 năm để được coi là chưa bị xử lý vi phạm hành chính. Do đó, hành vi của Phạm Tấn N đủ yếu tố cấu thành tội “Đánh bạc” và cần phải xử lý nghiêm.

Tuy nhiên, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; tài sản phạm tội có giá trị không lớn nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt theo điểm i, s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 2 vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt: Bị cáo Phạm Tấn N từ 09 (chín) tháng đến 12 (mười hai) tháng tù nhưng cho hưởng án treo.

Bị cáo không tranh luận và nói lời sau cùng: Bị cáo rất ăn năn, xin Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng án treo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Về hành vi:

Quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã được thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật. Quá trình điều tra, truy tố và xét xử tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Phạm Tấn N thừa nhận vào 14 giờ 00 phút ngày 18/4/2019 đã tham gia đánh bài ăn thua bằng tiền cùng với Lê Hữu A, Nguyễn Khoa B, Lê Anh T; loại bài tây 52 lá; kiểu chơi “Binh xập xám”. Bị cáo N cũng thừa nhận vào ngày 14/01/2019 đã bị Công an phường Bình An, Quận 2 ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi đánh bạc, bị cáo đã nộp phạt xong ngày 29/01/2019.

Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó, có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo Phạm Tấn N đã phạm vào tội “Đánh bạc”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự như kết luận của Kiểm sát viên.

Hành vi phạm tội của bị cáo là cố ý vi phạm pháp luật, tiếp tay cho các tệ nạn xã hội ngày càng phát triển, xâm phạm đến trật tự công cộng, làm mất trật tự an toàn xã hội. Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Hội đồng xét xử xét thấy cần phải xử phạt bị cáo với mức án phù hợp để giáo dục bị cáo nói riêng và đấu tranh phòng ngừa tội phạm nói chung trong xã hội.

Về tình tiết tăng nặng định khung hình phạt:

Hành vi của bị cáo không vi phạm các tình tiết định khung tăng nặng khác nên chỉ bị xét xử ở khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự.

Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với bị cáo:

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự khác. Xét sau khi bị Công an phường bắt quả tang, trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; tài sản dùng vào việc phạm tội có giá trị không lớn. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 nên áp dụng để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo. Bên cạnh đó, bị cáo N có nơi cư trú ổn định, rõ ràng, có khả năng tự cải tạo nên Hội đồng xét xử áp dụng thêm Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 cho bị cáo được hưởng án treo cũng đủ tác dụng giáo dục, phòng ngừa. Đồng thời tạo điều kiện cho các bị cáo tự cải tạo, sớm hòa nhập cộng đồng và trở thành công dân có ích cho xã hội.

Xét bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn, bị cáo là lao động chính trong gia đình có 02 con còn nhỏ nên miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về vật chứng: Đối với 01 bộ bài tây loại 52 lá, xét đây là công cụ, phương tiện của bị cáo dùng vào việc phạm tội, không có giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

- Đối với số tiền 1.410.000 đồng, xét đây là số tiền thu giữ tại chiếu bạc, được sử dụng vào việc phạm tội nên cần tịch thu, nộp ngân sách nhà nước.

Bị cáo phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

Bị cáo được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ nêu trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Phạm Tấn N phạm tội “Đánh bạc”.

- Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017:

Xử phạt bị cáo Phạm Tấn N: 09 (chín) tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 18 (mười tám) tháng, tính từ ngày tuyên án.

Giao bị cáo N cho Ủy ban nhân dân phường Bình Khánh, Quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trong trường hợp bị cáo N thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 của Luật Thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự từ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp bị cáo thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người được cho hưởng án treo phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 55, Điều 56 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tiếp tục duy trì Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số 08/2019/HSST-BPNC ngày 29/7/2019 của Tòa án nhân dân Quận 2 đối với bị cáo N cho đến khi bị cáo nhận được quyết định thi hành án của Cơ quan có thẩm quyền.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước số tiền 1.410.000 (một triệu bốn trăm mười nghìn) đồng;

- Tịch thu tiêu hủy: 01 bộ bài tây loại 52 lá.

(Theo Quyết định chuyển vật chứng số 27/QĐ-VKSQ2 ngày 23/7/2019 của Viện kiểm sát nhân dân Quận 2).

3. Về án phí: Áp dụng Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng về án phí, lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Phạm Tấn N nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự”.

3. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

(Đã giải thích về chế định án treo cho bị cáo rõ) 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

324
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 56/2019/HS-ST ngày 23/08/2019 về tội đánh bạc

Số hiệu:56/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 2 (cũ) - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;