Bản án 56/2019/HNGĐ-ST ngày 21/08/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con chung

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN PHÚ, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 56/2019/HNGĐ-ST NGÀY 21/08/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON CHUNG

Ngày 21 tháng 8 năm 2019, tại Tòa án nhân dân huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 48/2019/TLST-HNGĐ ngày 19 tháng 02 năm 2019, về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 54/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 19 tháng 7 năm 2019 và và Quyết định hoãn phiên tòa số 36/2019/QĐST-HNGĐ ngày 05 tháng 8 năm 2019, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị ThA T, sinh năm: 1986

Địa chỉ: Tổ 1, Ấp Thọ Lâm 2, xã Phú ThA, huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai.

Bị đơn: A Hoàng Thế A, sinh năm 1985

Địa chỉ: Tổ 9, Ấp L 2, xã H, huyện P, tỉnh N.

(Chị T đề nghị xét xử vắng mặt; anh A vắng mặt không rõ lý do)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 15/02/2019, lời khai trong quá trình chuẩn bị xét xử nguyên đơn chị Nguyễn Thị Thanh T trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị T và anh Hoàng Thế A tự nguyện tìm hiểu và sống chung với nhau từ cuối năm 2005, nhưng đến năm 2012 mới chị và anh Thế A mới đến Ủy ban nhân dân xã H, huyện P làm thủ tục đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật và được cấp giấy chứng nhận kết hôn số 173, ngày 24/12/2012.

Đời sống hôn nhân của vợ chồng chị đầm ấm, hạnh phúc đến năm 2015 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do tính cách không hợp nhau, không thông cảm và chia sẻ được với nhau những vấn đề trong cuộc sống, công việc. Mâu thuẫn vợ chồng chị đã được bố mẹ hai bên gia đình hòa giải nhưng tình hình không được cải thiện. Từ năm 2015 cho đến nay chị và anh Thế A đã không còn sống chung với nhau. Trong thời gian không sống chung, vợ chồng không ai quan tâm đến ai, nay chị T nhận thấy, tình cảm vợ chồng không còn, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị yêu cầu được ly hôn với anh Hoàng Thế A.

Về con chung: Vợ chồng có 01 (Một) con chung Nguyễn Đức Tr, sinh ngày 18-9-2006. Khi ly hôn, chị T đồng ý giao con chung cho anh Thế A trực tiếp nuôi dưỡng và cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng số tiền 800.000đ cho đến khi cháu Triệu thành niên và có khả năng lao động tự nuôi sống bản thân.

Về tài sản chung: Chị T không yêu cầu Tòa án giải quyết; về nợ chung: Theo chị T, vợ chồng không có nợ chung, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn anh Hoàng Thế A mặc dù được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng trong quá trình chuẩn bị xét xử không có ý kiến, đồng thời vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai.

Để chứng minh cho yêu cầu, ý kiến của mình, nguyên đơn đã nộp kèm theo đơn khởi kiện những tài liệu chứng cứ sau: Giấy chứng minh nhân dân (bản sao); sổ hộ khẩu của gia đình (bản sao); giấy chứng nhận kết hôn (bản sao); giấy khai sinh của con chung (bản sao); lời khai của nguyên đơn tại bản tự khai; đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Các tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn cung cấp Tòa án đã tiến hành sao gửi hợp lệ cho bị đơn.

Để giải quyết vụ án, theo yêu cầu của nguyên đơn, Tòa án đã tiến hành thu thập những tài liệu, chứng cứ sau: Biên bản ghi nhận ý kiến của cháu Nguyễn Đức Triệu, đề ngày 14/5/2019; Các biên bản xác minh ngày 04/4/2019; 14/5/2019 về tình trạng hôn nhân của các đương sự.

Tại phiên tòa Kiểm sát viên phát biểu ý kiến như sau:

Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và nguyên đơn đã tuân thủ đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý vụ án đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án. Bị đơn chưa tuân thủ đúng quy định của pháp luật.

Về nội dung vụ án: Đề nghị chấp nhận cho chị T ly hôn với anh Thế A; về con chung: Đề nghị giao hai con chung Nguyễn Đức Tr, sinh ngày 18/9/2006 cho A Phương trực tiếp nuôi dưỡng, chị T có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng số tiền 800.000đ.

Về tài sản chung: Chị T không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên không xem xét.

Về nợ chung: Chị T khai không có, nên không xem xét; đối với anh Hoàng Thế A nếu có yêu cầu chia tài sản chung, nợ chung thì có quyền khởi kiện bằng vụ án khác.

Về án phí: Nguyên đơn phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa:

[1] Về thủ tục tố tụng: Chị Nguyễn Thị Thanh T khởi kiện yêu cầu ly hôn với anh Hoàng Thế A, tranh chấp về nuôi con chung là Nguyễn Đức Triệu, sinh ngày 18/9/2006. Vì vậy, quan hệ pháp luật tranh chấp cần giải quyết trong vụ án này được xác định là “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con chung” theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự; bị đơn anh Hoàng Thế A có nơi cư trú tại xã H, huyện P, tỉnh N nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Tân Phú theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Nguyên đơn chị Nguyễn Thị Thanh T vắng mặt tại phiên tòa nhưng có đơn đề nghị xét xử vắng mặt; anh Hoàng Thế A là bị đơn, đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt tại phiên tòa, căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Hôn nhân giữa chị T, anh Thế A được xác lập trên cơ sở tự nguyện, đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã H, huyện P vào ngày 24/12/2012, vào sổ số 173, do đó đây là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật ghi nhận và bảo vệ.

[4] Đời sống hôn nhân của vợ chồng chị T, anh Thế A đầm ấm, hạnh phúc đến năm 2015 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng không có tiếng nói chung, không thông cảm và chia sẻ cho nhau những vấn đề trong cuộc sống. Từ năm 2015 đến nay, chị T và anh Thế A đã không còn không sống chung, vợ chồng không ai quan tâm đến ai, không còn thực hiện quyền và nghĩa vụ chung của vợ chồng.

[5] Đối với bị đơn anh Hoàng Thế A, qua xác minh tại địa phương nơi bị đơn cư trú, xác định anh Thế A có đăng ký hộ khẩu thường trú tại địa phương, vẫn đang sinh sống và thường xuyên có mặt tại địa chỉ như nguyên đơn cung cấp nhưng cố tính trốn tránh. Tòa án đã tống đạt hợp lệ giấy triệu tập và các văn bản tố tụng khác (Thông báo về việc thụ lý vụ án, Thông báo về phiên họp kiểm tranh việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, Quyết định đưa vụ án ra xét xử) cho bị đơn nhưng bị đơn vẫn không đến Tòa án làm việc, không cung cấp văn bản trình bày ý kiến, không cung cấp tài liệu, chứng cứ, tự từ bỏ quyền của đương sự. Mặt khác, điều này cũng thể hiện anh Thế A không có thiện chí để hòa giải đoàn tụ gia đình với chị T.

[6] Từ những lý do nêu trên, xác định được chị T, anh Thế A trong quá trình sống chung đã không còn thương yêu, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau. Vi phạm nghĩa vụ sống chung của vợ chồng được quy định tại Điều 19 Luật Hôn nhân và Gia đình; làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình thì yêu cầu ly hôn của chị T đối với anhThế A là có cơ sở.

[7] Về con chung và nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Chị T, anh Thế A có 01 (một) con chung là Nguyễn Đức Tr, sinh ngày 18-9-2006. Khi ly hôn, chị T đồng ý giao cháu Tr cho anh Thế A trực tiếp nuôi dưỡng và tự nguyện cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng số tiền 800.000đ (Tám trăm nghìn đồng).

[8] Xét thấy từ khi vợ chồng chị T, anh Hoàng Thế A không còn sống chung thì cháu Nguyễn Đức Tr do anh Thế A trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Mặc dù quá trình giải quyết vụ án không ghi nhận được ý kiến của A Thế A về việc nuôi con chung nhưng qua các tài liệu chứng cứ thu thập được tại hồ sơ vụ án thụ lý số 70/2018/TLST-HNGĐ ngày 09/3/2019 của Tòa án nhân dân huyện Tân Phú và qua xác minh tại địa phương, người thân thích của anh Thế A có thì thể hiện anh Thế A có việc làm và thu nhập ổn định, có nơi cư trú rõ ràng, đảm bảo các điều kiện về vật chất, tinh thần, thời gian để nuôi dưỡng con chung trưởng thành về mọi mặt, hơn nữa con chung đang sinh sống ổn định cùng anh Thế A. Tuy cháu Triệu có nguyện vọng được sống cùng với chị T nhưng chị T hiện đang làm công nhân, nơi ở không ổn định, bản thân chị T cũng tự nguyện giao con cho anh Hoàng Thế A nuôi dưỡng, hơn nữa ý kiến của cháu Triệu cũng chỉ mang ý nghĩa tham khảo. Do đó, để không xáo trộn đời sống của con trẻ, nhằm đảo bảo quyền lợi về mọi mặt của con chung giao con chung cho anh Thế A trực tiếp nuôi dưỡng, chị T có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng số tiền 800.000đ (Tám trăm nghìn đồng) cho đến khi con chung thành niên và có khả năng lao động tự nuôi sống bản thân.

[9] Về tài sản chung: Chị T không yêu cầu Tòa án giải quyết; về nợ chung: Chị T khai không có, nên không xem xét; đối với anh Thế A nếu có yêu cầu chia tài sản chung, nợ chung đối với chị T thì có quyền khởi kiện bằng vụ án khác.

[10] Về án phí: Chị T là nguyên đơn trong vụ án ly hôn, do đó chị T phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn; chị T là người có nghĩa vụ cấp dưỡng theo định kỳ, vì vậy phải chịu án phí dân sự sơ thẩm không có giá ngạch, theo quy định tại khoản 4 Điều 147 BLTTDS và điểm a khoản 5; điểm a khoản 6 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

[11] Phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa về đường lối giải quyết vụ án là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử, nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1, 3 Điều 228; Điều 235 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Điều 19, 51, 56, 81, 82, 83, 84 và Điều 131 của Luật Hôn nhân Gia đình;

- Điểm a khoản 5, điểm a khoản 6 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị ThA T về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con chung” đối với A Hoàng Thế A.

1. Về quan hệ hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Nguyễn Thị Thanh T và anh Hoàng Thế A.

2. Về nuôi con chung: Giao con chung Nguyễn Đức T, sinh ngày 18/9/2006 cho anh Hoàng Thế A trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục.

- Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị T có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi cháu Triệu mỗi tháng số tiền 800.000đ (Tám trăm nghìn đồng) cho đến khi con chung thành niên và có khả năng lao động, tự nuôi sống bản thân. Thời điểm cấp dưỡng tính từ tháng 9/2019.

Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, người phải thi hành án chưa thi hành thì còn phải chịu khoản lãi tương ứng với khoản tiền và thời gian chưa thi hành án xong theo mức lãi suất quy định tại Điều 357 và Điều 468 Bộ luật Dân sự.

Chị T có quyền qua lại thăm nom, chăm sóc con chung không ai được gây trở ngại. Vì lợi ích của con chung các bên đương sự được quyền xin thay đổi việc nuôi con và cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản chung: Chị T không yêu cầu Tòa án giải quyết; về nợ chung, chị T khai không có, nên không xem xét, giải quyết. Dành quyền khởi kiện về chia tài sản chung của vợ chồng bằng vụ án khác cho A Hoàng Thế A nếu có yêu cầu.

4. Về án phí: Chị Nguyễn Thị Thanh T phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn; 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm không có giá ngạch đối với người có nghĩa vụ cấp dưỡng theo định kỳ; được khấu trừ vào số tiền chị T đã nộp tạm ứng theo biên lai thu số 006462 ngày 15/02/2019 tại Chi cục thi hành án Dân sự huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai chuyển thành án phí. Chị T còn phải có nghĩa vụ nộp tiếp số tiền 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm không có giá ngạch đối với người có nghĩa vụ cấp dưỡng theo định kỳ.

Người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014).

5. Về quyền kháng cáo: Chị T, anh Thế A có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

228
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 56/2019/HNGĐ-ST ngày 21/08/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con chung

Số hiệu:56/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Phú - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 21/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;