TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH GIANG, TỈNH HẢI DƯƠNG
BẢN ÁN 56/2018/HS-ST NGÀY 20/11/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 20 tháng 11 năm 2018, tại Nhà văn hóa K, Thị trấn K, huyện B, tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 62/2018/TLST- HS ngày 08 tháng 11 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 57/2018/QĐXXST- HS ngày 09 tháng 11 năm 2018 đối với bị cáo:
Chu Văn B - sinh năm 1992 tại xã B, huyện B, tỉnh Hải Dương.
Nơi cư trú: Thôn B, xã B, huyện B, tỉnh Hải Dương.
Nghề nghiệp: lao động tự do; Trình độ văn hoá (học vấn): 9/12; dân tộc Kinh; giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Chu Văn D (đã chết) và bà Vũ Thị M. Tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 17/9/2018 đến ngày 18/9/2018 tạm giam tại Trại tạm giam Kim Chi - Công an tỉnh Hải Dương - Có mặt tại phiên tòa.
- Người chứng kiến:
Anh Phạm Văn P - sinh năm 1965
Địa chỉ: Khu H, xã T, huyện B, tỉnh HD. Anh Nguyễn Quang T - sinh năm 1988
Địa chỉ: Khu x, thị trấn K, huyện B, tỉnh Hải Dương Đều vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Chu Văn B là người nghiện ma túy. Khoảng 22 giờ 30 phút, ngày 16/9/2018, B điều khiển xe mô tô BKS 34P4 – 0823 đi từ nhà ở thôn B, xã B, huyện B, tỉnh Hải Dương đến thị trấn K, huyện B tìm mua ma túy sử dụng. Khi đến đường xóm C thuộc Khu x, thị trấn K, B gặp và mua của người phụ nữ tên K ( không xác định được họ, tên đệm, địa chỉ) 01 gói ma túy loại Methamphetamine với giá 200.000đồng. Sau khi mua được gói ma túy, B cầm trên tay phải rồi điều khiển xe mô tô đi tìm nơi sử dụng. Đến 22 giờ 45 phút cùng ngày, B điều khiển xe đến ngã 3 đường xóm C thì bị lực lượng Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện B phát hiện bắt quả tang, thu giữ trên người B 01 gói nilon màu đen kích thước 1,2cm x2,2cm bên trong chứa các cục tinh thể mầu trắng, B khai nhận đó là ma túy tổng hợp dạng đá mua về để sử dụng và 01 xe môtô BKS 34P4 - 0823.
Kết luận giám định số 546/KLGĐ - PC09 ngày 19/9/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hải Dương kết luận: Chất rắn( dạng tinh thể) màu trắng ghi thu của B gửi đến giám định có khối lượng 0,156 gam, là ma túy loại Methamphetamine. Methamphetamine nằm trong danh mục II, STT 323, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ. Hoàn lại đối tượng giám định là 0,101 gam Methamphetamine.
Tại phiên tòa, bị cáo Chu Văn B đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của những người chứng kiến, vật chứng đã thu giữ và phù hợp với các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án.
Bản cáo trạng số 56/CT-VKS ngày 08/11/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Giang truy tố bị cáo Chu Văn B về tội: “ Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Giang giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Chu Văn B đã khai nhận hành vi phạm tội của mình phù hợp với lời khai của những người chứng kiến, biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ cùng các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Hành vi của bị cáo có đủ yếu tố cấu thành tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Do đó, Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với Chu Văn B về tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 BLHS: Xử phạt bị cáo Chu Văn B từ 13 đến 16 tháng tù thời gian tính từ ngày tạm giữ 17/9/2018.
Về hình phạt bổ sung: Bị cáo đang bị tạm giam nên không áp dụng phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
Về vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 46, điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015; Điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu cho tiêu hủy 0,101 gam Methamphetamine là mẫu vật hoàn lại sau giám định.
Trả lại bị cáo 01 xe máy nhãn hiệu Wave màu sơn: đỏ - đen BKS: 34P4-0823; Số khung : YO 74749; số máy: 1623274.
Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 BLTTHS; Nghị quyết 326/2016/UBTTQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án buộc bị cáo phải chịu 200.000đ án phí HSST.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện B, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện B, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự . Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2]Xét quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Chu Văn B thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình. Lời nhận tội của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định, lời khai người chứng kiến, vật chứngthu giữ và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy đã có đủ cơ sở để kết luận: Hồi 22 giờ 45 phút ngày 16/9/2018, tại đường xóm C thuộc khu x, thị trấn K, huyện B, tỉnh Hải Dương, Chu Văn B có hành vi cất giấu trái phép trên người 0,156 gam Methamphetamine mục đích để sử dụng thì bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện B phát hiện bắt quả tang, thu giữ vật chứng.
Xét hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý, sử dụng của Nhà nước về chất ma túy, xâm phạm trật tự trị an xã hội. Ma túy là loại độc dược gây nghiện, từ việc nghiện ma túy có thể gây nguyhại cho sức khỏe người sử dụng, ảnh hưởng xấu đến nhân cách, đạo đức con người, ảnh hưởng thuần phong mỹ tục, sự phát triển giống nòi và là nguyên nhân dẫn đến nhiều tệ nạn khác trong xã hội. Bản thân bị cáo cũng nhận thức được tác hại của ma túy, nhưng vì mục đích để thỏa mãn bản thân, bị cáo vẫn coi thường pháp luật, cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, thực hiện hành vi với lỗi cố ý trực tiếp nên phải chịu trách nhiệm hình sự do hành vi phạm tội của mình gây ra. Từ những phân tích nêu trên đã có đủ căn cứ kết luận bị cáo Chu Văn B phạm tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS. Cáo trạng của VKSND huyện B truy tố đối với bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Thời gian gần đây trên địa bàn huyện B xảy ra một số loại tội phạm về ma túy gây nhiều bức xúc trong nhân dân và gây mất trật tự trị an trong xã hội. Vì vậy cần đưa vụ án ra xét xử nhanh chóng kịp thời nhằm phục vụ nhiệm vụ chính trị của địa phương.
Xét nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS đối với bị cáo:
Về nhân thân: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự. Tại phiên tòa thành khẩn khai báo nên được hưởng 01 tình tiết giảm nhẹ theo điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS. Xét thấy bị cáo phạm tội nghiêm trọng nên cần xử phạt tù có thời hạn để cải tạo thành người tốt.
Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo đang bị tạm giam, không có nghề nghiệp ổn định nên không áp dụng phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
Về vật chứng: Đối với 0,101 gam Methamphetamine là mẫu vật hoàn lại sau giám định là vật cấm lưu hành, tàng trữ nên cần áp dụng điểm a khoản 1 Điều 46, điểm c khoản 1 Điều 47 BLHS năm; Điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự Tịch thu cho tiêu hủy. Khi bắt giữ bị cáo, Cơ quan Cảnh sát điều tra còn thu giữ của bị cáo 01 xe máy nhãn hiệu Wave màu sơn: đỏ - đen BKS: 34P4-0823; Số khung : YO 74749; số máy: 1623274. Xét thấy đây không phải là phương tiện phạm tội nên cần trả lại bị cáo để sử dụng theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 106 BLTTHS.
Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 BLTTHS; Nghị quyết 326/2016/UBTTQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí tòa án buộc bị cáo phải chịu 200.000đ án phí HSST.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 BLHS.
Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Chu Văn B phạm tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Chu Văn B 13( mười ba) tháng tù thời gian tính từ ngày tạm giữ 17/9/2018.
Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
Về vật chứng: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 46, điểm c khoản 1 Điều 47 BLHS; Điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự : Tịch thu cho tiêu hủy 0,101 gam Methamphetamine là mẫu vật hoàn lại sau giám định.
Trả lại bị cáo 01 xe máy nhãn hiệu Wave màu sơn: đỏ - đen BKS: 34P4-0823; Số khung : YO 74749; số máy: 1623274.
Các vật chứng trên hiện đang quản lý tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 13/11/2018 giữa Chi cục THADS và Công an huyện B.
Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật TTHS; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án, lệ phí tòa án buộc bị cáo Chu Văn B phải nộp 200.000đ án phí HSST.
Án xử công khai sơ thẩm báo cho bị cáo biết có quyền kháng cáo bản án tronghạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Bản án 56/2018/HS-ST ngày 20/11/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 56/2018/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Bình Giang - Hải Dương |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 20/11/2018 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về