TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ BÌNH LONG, TỈNH BÌNH PHƯỚC
BẢN ÁN 56/2018/HSST NGÀY 12/11/2018 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
Ngày 12 tháng 11 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã B xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 49/2018/HSST ngày 17/10/2018, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 49/2018/HSST - QĐXX ngày 29/10/2018 đối với bị cáo:
Phạm Minh T, sinh năm 1977, tại tỉnh Bình Phước, Tên gọi khác: Thúi, Hộ khẩu thường trú và chổ ở: Tổ 3, ấp H, xã T, thị xã B, tỉnh Bình Phước. Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 01/12; Nghề nghiệp: Làm vườn; Tiền án, tiền sự: Không. Con ông Nguyễn Văn V (chết) và bà Phạm Thị Nguyệt M, sinh năm 1949; Trú tại tổ 3, ấp H, xã T, thị xã B, tỉnh Bình Phước. Vợ của bị cáo tên Lê Thị Th và có 02 người con, sinh năm 2013, 2017, Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
Bị hại: Ông Hoàng Minh H, sinh năm 1994 (Có mặt)
Trú tại: Tổ 5, ấp N, xã T, thị xã B, tỉnh Bình Phước
Người làm chứng:
1. Bà Phạm Thị Nguyệt M, sinh năm 1949 (Vắng mặt)
Trú tại: Tổ 3, ấp H, xã T, thị xã B, tỉnh Bình Phước
2. Bà Nguyễn Thị Y, sinh năm 1985 (Có mặt)
Trú tại: Tổ 3, ấp H, xã T, thị xã B, tỉnh Bình Phước
3. Ông Đinh Văn U, sinh năm 1994 (Có mặt)
Trú tại: Tổ 6, ấp N, xã T, thị xã B, tỉnh Bình Phước.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 16 giờ ngày 21/6/2018 tại tổ 3, ấp H, xã T, thị xã B, tỉnh Bình Phước, bà Nguyễn Thị Y và bà Phạm Thị Nguyệt M thống nhất điểm đầu và điểm cuối để tiến hành đo đạc xác định ranh giới đất làm hàng rào. Bà Y thuê ông Hoàng Minh H và ông Đinh Văn U kéo dây đo ranh đất. Ông U cầm dây đứng ở điểm đầu còn ông H cầm dây đi về phía điểm cuối. Khi đi được khoảng 30m H gặp một bụi chuối nên đi vòng qua phía đất nhà bà M khoảng 1,5m. Lúc này Phạm Minh T đứng theo dõi thấy ông H kéo dây lệch qua đất nhà mình nên la lớn kêu ông H đi đúng phần đường đo ranh đất nhưng do khoảng cách xa nên ông H không nghe rõ. Ông U thấy vậy cũng la lên, ông H nghe tiếng ông U nên quay lại.Tài tức giận nhặt một khúc cây dài 64,8cm, đường kính lớn nhất 4,5cm, đường kính nhỏ nhất 3,8cm gần đó đi lại chỗ ông H. Khi đứng đối diện với ông H khoảng cách 01m thì T sử dụng tay phải cầm cây vừa nhặt đánh một cái hướng từ trên xuống, từ phải sang trái, trúng vào bên trái đầu của ông H làm ông H ngã xuống sát bụi chuối sau đó được đưa đi cấp cứu và chữa trị thương tích. Bản kết luận giám định pháp y số 216/2018/TgT ngày 31/7/2018 của Trung tâm pháp y Sở y tế tỉnh Bình Phước kết luận Hoàng Minh H sẹo xước da 1/3 trên – trong rãnh tai trái kích thước 0,5x0,1cm bờ gọn, mềm, lành tốt. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 01% (Một phần trăm). Về dân sự: Hoàng Minh H yêu cầu bồi thường tổng cộng 32.500.000 đồng bao gồm: Tiền viện phí 5.000.000 đồng trong đó có một số tiền có hóa đơn, Tiền xe đi lại tổng cộng 7.000.000 đồng gồm tiền xe đi bệnh viện tỉnh Bình Dương 1.500.000 đồng, đi bệnh viện Chợ rẫy 1.000.000 đồng, quay về Bình Long 1.000.000 đồng, đi tái khám 2.000.000 đồng, lấy giấy y chứng 03 bệnh viện 1.500.000 đồng, đi giám định thương tích ở bệnh viện Đồng Xoài.
Vật chứng của vụ án: Một khúc cây dài 64,8cm, đường kính lớn nhất 4,5cm, đường kính nhỏ nhất 3,8cm khúc cây Tài sử dụng đánh ông H do không còn giá trị sự dụng nên đề nghị tịch thu tiêu hủy.
Về dân sự: Tiền công lao động 30 ngày x 350.000 đồng/ngày = 10.500.000 đồng, tiền bồi thường tổn hại về sức khỏe: 10.000.000 đồng. Hoàng Minh H đã nhận tiền bồi thường 2.000.000 đồng và yêu cầu Phạm Minh T tiếp tục bồi thường số tiền còn lại.
Tại bản cáo trạng số 43/CTr-VKS - HS ngày 17 tháng 10 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã B đã truy tố Phạm Minh T về tội “Cố ý gây thương tích” theo khoản 1 Điều 134 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.
Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quyết định truy tố như bản cáo trạng căn cứ vào tính chất, mức độ, hành vi và hậu quả, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đề nghị Hội đồng xét xử tuyên phạt Phạm Minh T mức án từ 9 tháng tù đến 12 tháng tù cho hưởng án treo.
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng, tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về thủ tục tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Bình Long, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Bình Long, Kiểm sát viên, Tòa án nhân dân thị xã Bình Long, Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa: Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về nội dung vụ án: Tại phiên tòa cũng như tại cơ quan điều tra bị cáo Phạm Minh T đã khai nhận toàn bộ hành vi vào khoảng 16 giờ 00 phút, ngày 21/6/2018, bị cáo T thực hiện hành vi dùng một khúc cây dài 64,8cm, đường kính lớn nhất 4,5cm, đường kính nhỏ nhất 3,8cm đứng đối diện với bị hại cách khoảng 1m, tay phải cầm cây đánh một cái hướng từ trên xuống, từ phải sang trái, trúng vào bên trái đầu của ông Hoàng Minh H, địa điểm nơi gây án tại tổ 3, ấp H, xã T, thị xã B, tỉnh Bình Phước. Theo bản kết luận giám định pháp y số 216/2018/TgT ngày 31/7/2018 của Trung tâm pháp y Sở y tế tỉnh Bình Phước kết luận ông Hoàng Minh H sẹo xước da 1/3 trên – trong rãnh tai trái kích thước 0,5 x 0,1cm bờ gọn, mềm, lành tốt. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 01% (Một phần trăm). Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại, người làm chứng, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa. Đủ yếu tố cấu thành tội “Cô y gây thương tich”. theo điêm khoan 1 Điều 134 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Bị cáo T thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi sai trái của mình chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án thấp, bị cáo hứa chấp hành tốt và không tái phạm.
Do hiểu lầm và bản tính nóng nảy nên trong khi thửa đất liền kề tiến hành kéo thước đo ranh đất để xây dựng công trình bị cáo T đã dùng một khúc cây dài 64,8cm, đường kính lớn nhất 4,5cm, đường kính nhỏ nhất 3,8cm đứng đối diện bị hại và đánh vào đầu ông H gây tỷ lệ tổn thương cơ thể ông Hải là 01% (Một phần trăm). Là hành vi vi phạm pháp luật hình sự cần phải xử phạt bị cáo mức án phù hợp, tương xứng với hành vi và hậu quả do bị cáo gây ra. Tuy nhiên khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Bị cáo phạm tội lần đầu, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, bồi thường thiệt hại, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo là lao động chính trong gia đình, theo điêm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Do tính chất không còn nguy hiểm, cần áp dụng Điều 65 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 cho bị cáo T được hưởng án treo để bị cáo tự sửa chữa, tự rèn luyện trở thành người tốt, có ích cho xã hội là phù hợp. Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát đề xuất mức án phù hợp nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
[3] Về vật chứng của vụ án: Một khúc cây dài 64,8cm, đường kính lớn nhất 4,5cm, đường kính nhỏ nhất 3,8cm bị cáo T sử dụng làm công cụ gây án không còn giá trị sử dụng, cần tịch thu tiêu hủy theo quy định tại khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.
[4] Về trách nhiệm dân sự: Tại phiên tòa bị hại ông Hoàng Minh H yêu cầu bị cáo bồi thường tiền chi phí khám chữa trị thương tích, tiền xe đưa đi cấp cứu và tiền công lao động tổng cộng 9.770.144 đồng theo bản kê ngày 31 tháng 10 năm 2018, bị cáo đã bồi thường cho bị hại 2.000.000 đồng, số tiền còn lại 7.770.144 đồng, bị cáo T đồng ý bồi thường theo yêu cầu của bị hại. Sự thỏa thuận về bồi thường thiệt hại giữa bị cáo T và ông Hoàng Minh H là phù hợp với quy định củapháp luật nên được Hội đồng xét xử ghi nhận: Bị cáo cáo Phạm Minh T có nghĩa vụ bồi thường cho ông Hoàng Minh H 7.770.144đ (Bảy triệu bảy trăm bảy mươi nghìn một trăm bốn mươi bốn đồng).
[5] Về án phí: Theo quy định tại các Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về thu, miễn, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Bị cáo Phạm Minh T phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 194.253đ (Một trăm chín mươi bốn nghìn hai trăm năm mươi ba đồng) án phí dân sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Phạm Minh T phạm tội “Cô ý gây thương tích”.
1. Về hình phạt: Căn cứ khoản 1 Điều 134, điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 65 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017, Xử phạt Phạm Minh T 10 (mười) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 20 (Hai mươi) tháng, thời hạn tính từ ngày tuyên án.
Giao Phạm Minh T về chính quyền địa phương nơi thường trú Ủy ban nhân dân xã T, thị xã B, tỉnh Bình Phước để quản lý, giáo dục trong thời gian thử thách.
Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trong trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bô luât hinh sư năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.
2. Vê trách nhiệm dân sự: Căn cứ theo Điều 590 Bộ luật dân sự và Điều 246 Bộ luật tố tụng dân sự; Phạm Minh T có nghĩa vụ bồi thường cho ông Hoàng Minh H số tiền 7.770.144đ (Bảy triệu bảy trăm bảy mươi nghìn một trăm bốn mươi bốn đồng).
Kể từ ngày án có hiệu lực và có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi theo khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự của số tiền còn phải thi hành án tương ứng với thời gian chậm thi hành án.
3.Vật chứng của vụ án: Căn cứ vào khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017: Tịch thu tiêu hủy một khúc cây dài 64,8cm, đường kính lớn nhất 4,5cm, đường kính nhỏ nhất 3,8cm bị cáo T sử dụng làm công cụ gây án không còn giá trị sử dụng.
4. Về Án phí: Căn cứ vào các Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về thu, miễn, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Bị cáo Phạm Minh T phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 194.253đ (Một trăm chín mươi bốn nghìn hai trăm năm mươi ba đồng) án phí dân sự sơ thẩm.
Bị cáo, bị hại có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 56/2018/HSST ngày 12/11/2018 về tội cố ý gây thương tích
Số hiệu: | 56/2018/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thị xã Bình Long - Bình Phước |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 12/11/2018 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về