TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH PHƯỚC
BẢN ÁN 56/2018/HS-PT NGÀY 14/09/2018 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
Ngày 14 tháng 9 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh B tiến hành xét xử phúc thẩm công khai vụ án Hình sự thụ lý số 62/2018/HSPT ngày 14 tháng 8 năm 2018 đối với bị cáo Lê Đức N do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án Hình sự sơ thẩm số 30/2018/HSST ngày 20 tháng 6 năm 2018 của Tòa án nhân dân thị xã B, tỉnh Bình Phước.
Bị cáo có kháng cáo:
Lê Đức N, sinh ngày 1998 tại Bình Phước; Nơi cư trú: Tổ 2, ấp T, xã T, thị xã B, tỉnh Bình Phước; Nghề nghiệp: Chăn nuôi; Trình độ học vấn: 12/12; Con ông Lê Đức T, sinh năm 1972 và bà Nguyễn Thị M, sinh năm 1972; Bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án, Tiền sự: Không; Bị cáo bị áp dụng biện pháp “Cấm đi khỏi nơi cư trú” cho đến nay. “Có mặt”
Ngoài ra, trong vụ án còn có 02 bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụliên quan nhưng không có kháng cáo, kháng nghị nên không triệu tập.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo Bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân thị xã B, tỉnh Bình Phước thì nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 19 giờ ngày 03/07/2017, Đinh Minh Đ, Nguyễn Lê T (bạn gái của Đ), O (bạn của T, chưa rõ nhân thân), Nguyễn Phi H, Lê Đức N, Trần Văn T, Vũ Văn T, Nguyễn Thanh V (B), Nguyễn Thanh B (B), Nguyễn Xuân T (B), Nguyễn Văn H cùng nhau ăn cháo gà và uống rượu tại nhà của T. Trong lúc ăn uống thì có một thanh niên tên T là bạn của O điều khiển xe máy Cub dừng trước cửa nhà T thì bị V chửi nên xảy ra mâu thuẫn nhưng được mọi người can ngăn nên T bỏ đi.
Đến khoảng 23 giờ 30 phút cùng ngày, trong khi đang đứng chơi trên đường Nguyễn D ở khu vực trước cổng quán ăn “P” thì V, B, T và Đ nhìn thấy T cùng với bạn của T tên H (chưa rõ nhân thân) chạy xe máy đến. Nhìn thấy V nên T, H dùng cây đánh V, Đ, T, B. B chạy bộ về nhà, T điều khiển xe máy chạy thoát, Đ cũng thoát được do trốn vào nhà của người dân gần đó rồi gọi điện thoại cho N biết mình bị đánh ở khu vực trước cổng quán “P”, còn V chạy vào sân nhà anh Nguyễn Kim K, thuộc tổ 10, khu phố P, phường P để trốn. Lúc này khoảng hơn 00 giờ ngày 04/07/2017, anh K đang ở trong nhà thì nghe tiếng chó sủa nhiều nên đi ra xem có chuyện gì thì phát hiện V đi vào nhà mình, có biểu hiện nghi vấn nên ra giữ V lại, đồng thời gọi anh trai là Nguyễn Hoàng P đang ngủ trong nhà dậy để cùng K đưa V đến Công an phường P trình báo. P điều khiển xe máy Honda Wave màu trắng chở V ngồi giữa, còn K ngồi sau giữ V chạy đến Công an phường P.
Khi P điều khiển xe máy qua khỏi quán ăn “P” theo hướng từ ngã tư Chợ C đi Sân bay thì Nguyễn Thanh V thấy Vũ Văn T, Trần Văn T, Lê Đức N và nhiều người khác đang đứng tại đó nên la lớn kêu cứu, Vũ Văn T nhìn thấy nên điều khiển xe máy Honda Wave màu đỏ, biển số 93H5-9969 đuổi theo, Trần Văn T điều khiển xe máy Honda Future, biển số 93E1-12567 chở theo Lê Đức N cũng đuổi theo để giải cứu cho Nguyễn Thanh V. Khi chạy đến khu vực gần quán ăn “H” thì Vũ Văn T đuổi kịp xe của Nguyễn Hoàng P, áp sát rồi chặn đầu xe của Nguyễn Hoàng P lại. Vũ Văn T xuống xe rút con dao dài khoảng 40cm thủ sẵn trong người ra chỉ vào mặt Nguyễn Hoàng P để đe dọa và yêu cầu Nguyễn Hoàng P, Nguyễn Kim K thả Nguyễn Thanh V ra nhưng P, K không đồng ý. Cùng lúc này, Trần Văn T chạy đến dừng xe phía sau cách xe của P khoảng 1 mét. Trần Văn T và Lê Đức N đến chỗ P và Vũ Văn T đang đứng, Trần Văn T giật lấy con dao Vũ Văn T đang cầm rồi chém ngang về phía P và K nhưng không trúng, Trần Văn T tiếp tục xông vào chém P từ trên xuống dưới, từ phải sang trái, P giơ tay trái lên đỡ thì bị trúng vào mu bàn tay trái, Trần Văn T giơ dao lên chém tiếp vào người P thì P dùng tay phải để đỡ nên bị chém trúng vào mặt sau khuỷu tay phải. Thấy vậy, K bỏ chạy về phía cổng UBND phường P, P cũng định bỏ chạy thì bị Lê Đức N dùng tay đấm trúng vào người hai cái, P bỏ chạy đượcvề hướng cổng UBND phường P thì bị Trần Văn T đuổi theo dùng dao chém từ trên xuống dưới thêm hai nhát trúng vào lưng và một nhát vào cẳng chân phải của P thì Trần Văn T dừng lại, rồi Vũ Văn T điều khiển xe máy chở Nguyễn Thanh V, còn Trần Văn T chở Lê Đức N cùng nhau đi về nhà Vũ Văn T. Về đến nhà Vũ Văn T, Trần Văn T đã vứt con dao ở khu vực sau nhà. Sau khi Trần Văn T, Vũ Văn T, Lê Đức N, Nguyễn Thanh V bỏ đi, K quay lại lấy xe máy chở P đi cấp cứu tại Bệnh viện đa khoa thị xã B rồi chuyển đến Bệnh viện chấn thương chỉnh hình TP. H chữa trị.
Ngày18/09/2017, Nguyễn Hoàng P làm đơn xin từ chối giám định thương tích và không yêu cầu xử lý hình sự đối với những người đã gây thương tích cho P.
Xét thấy hành vi của Trần Văn T, Vũ Văn T, Lê Đức N có tính chất côn đồ; thương tích của anh P nặng nên ngày 18/10/2017, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã B ra Quyết định trưng cầu giám định thương tích số: 109 và đưa Nguyễn Hoàng P đi giám định thương tích tại Trung tâm giám định pháp y – y khoa tỉnh B.
Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số: 271/2017/TgT ngày27/10/2017 của Trung tâm giám định pháp y – y khoa tỉnh B kết luận: Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là: 27%. (Hai mươi bảy phần trăm)
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 30/2018/HS-ST ngày 20 tháng 6 năm 2018 củaTòa án nhân dân thị xã B, tỉnh B quyết định:
Căn cứ vào điểm đ khoản 2 Điều 134; Điều 17; Điều 38; Điều 50; điểm b,s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Xử phạt bị cáo Lê Đức N 02 năm 06 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày thi hànhán.
Ngoài ra, bản án còn quyết định về hình phạt đối với các bị cáo Trần Văn T, Vũ Văn T, án phí và quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 25 tháng 6 năm 2018, bị cáo Lê Đức N kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên toà phúc thẩm, bị cáo Lê Đức N thay đổi yêu cầu kháng cáo xin được hưởng án treo.
Quan điểm của Kiểm sát viên tại phiên toà phúc thẩm: Bị cáo Lê Đức N phạm tội với vai trò thứ yếu, Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo mức án 02 năm 06 tháng tù là có phần nghiêm khắc. Xét thấy bị cáo có nơi cư trú rõ ràng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đủ điều kiện để được cho hưởng án treo, do đó đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 355; điểm e khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự, chấp nhận kháng cáo xin được hưởng án treo của bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên toà, kết quả tranh tụng tại phiên toà Hội đồng xét xử Toà án nhân dân tỉnh B nhận định như sau:
[1] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Lê Đức N thừa nhận hành vi phạm tội như Bản án của Tòa án cấp sơ thẩm nhận định. Xét lời nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của các bị cáo khác, bị hại, người làm chứng, đồng thời phù hợp với Kết luận giám định pháp y cùng các tài liệu, chứng cứ khác của vụ án được thẩm tra công khai tại phiên tòa, do đó Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Ngày 04/7/2017, tại trước cổng quán “H” thuộc tổ 4, khu phố P, phường P, thị xã B, tỉnh B, bị cáo Vũ Văn T đã rút 01 con dao trong người chỉ vào mặt của anh Nguyễn Hoàng P để đe dọa thì bị cáo Trần Văn T chạy lại giật dao trên tay của T và chém nhiều nhát vào người anh Nguyễn Hoàng P. Khi anh P bỏ chạy về hướng bị cáo Lê Đức N thì bị cáo N dùng tay đấm 02 cái vào người, Trần Văn T tiếp tục đuổi theo anh P và dùng dao chém thêm hai nhát trúng vào lưng và cẳng chân phải của P, kết quả anh P bị tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 27%. Tòa án nhân dân thị xã B đã xét xử bị cáo Lê Đức N và đồng phạm về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đứng người, đúng tội, đúng quy định pháp luật.
[2] Xét kháng cáo xin được hưởng án treo của bị cáo Lê Đức N thấy rằng: Đây là vụ án đồng phạm giản đơn, trong đó bị cáo Trần Văn T là người thực hành tích cực, trực tiếp dùng dao tấn công gây thương tích cho bị hại Nguyễn Hoàng P 27%; bị cáo Vũ Văn T là người chuẩn bị hung khí, đe dọa bị hại và tạo điều kiện cho bị cáo T tấn công bị hại; riêng bị cáo Lê Đức N chỉ là người đi theo bị cáo Trần Văn T, bị cáo không phải là người chuẩn bị hung khí cũng như không trực tiếp gây thương tích cho bị hại. Việc bị cáo T tấn công bị hại là bất ngờ vì khi bị hại chạy về hướng của bị cáo N thì bị cáo mới có phản xạ dùng tay đánh 02 cái để bị hại chạy sang hướng khác, điều này phù hợp với nội dung đơn xin cho bị cáo N được hưởng án treo của bị hại. Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo Trần Văn T 02 năm 02 tháng tù, xử phạt bị cáo Vũ Văn T 02 năm 06 tháng tù và xử phạt bị cáo Lê Đức N 02 năm 06 tháng tù là chưa phân hóa vai trò, tính chất, mức độ và hậu quả của hành vi do từng bị cáo gây ra và cũng chưa xem xét đến vai trò bị cáo N là thứ yếu trong vụ án để áp dụng Điều 54 Bộ luật hình sự năm 2015 cho bị cáo. Mặt khác, sau khi xét xử sơ thẩm, tuy bị hại Nguyễn Hoàng P không kháng cáo nhưng tại cấp phúc thẩm, bị hại P có đơn xin cho bị cáo được hưởng án treo, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 cần xem xét cho bị cáo. Do đó, kháng cáo của bị cáo được chấp nhận.
[3] Ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh B tại phiên toà phúc thẩm là có căn cứ nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.
[4] Án phí hình sự phúc thẩm, do kháng cáo của bị cáo Lê Đức N được chấp nhận nên bị cáo không phải chịu.
[5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
[1] Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015, chấp nhận kháng cáo của bị cáo Lê Đức N về việc xin giảm nhẹ hình phạt.
Sửa bản án hình sự sơ thẩm số 30/2018/HS-ST ngày 20 tháng 6 năm 2018 của Tòa án nhân dân thị xã B, tỉnh Bình Phước.
[2] Tuyên bố bị cáo Lê Đức N phạm tội “Cố ý gây thương tích”.
[3] Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; Điều 17; Điều 58; điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 54; Điều 65 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Xử phạt bị cao Lê Đức N 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù nhưng cho hưởng ántreo, thời gian thử thách là 05 (năm) năm, kể từ ngày tuyên án phúc thẩm 14/9/2018.
Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã T, thị xã B, tỉnh B giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 của Luật thi hành án hình sự.
Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
[4] Án phí hình sự phúc thẩm, bị cáo Lê Đức N không phải chịu.
[5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[6] Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Bản án 56/2018/HS-PT ngày 14/09/2018 về tội cố ý gây thương tích
Số hiệu: | 56/2018/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Bình Phước |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 14/09/2018 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về