Bản án 56/2018/HNGĐ-ST ngày 04/10/2018 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN LÊ CHÂN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 56/2018/HNGĐ-ST NGÀY 04/10/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 04 tháng 10 năm 2018, tại Trụ sở Tòa án nhân dân Quận Lê Chân thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 210/2018/TLST- HNGĐ ngày 09 tháng 5 năm 2018 về tranh chấp ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 66/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 31 tháng 8 năm 2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số 65/2018/QĐST-HNGĐ ngày 14 tháng 9 năm 2018 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Minh H; nơi cư trú: Số 2/315 L, phường L, Quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng; có mặt.

- Bị đơn: Anh Ngô Việt D; ĐKHKTT: Số 2/315 L, phường L, Quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng; hiện đang cai nghiện tự nguyện tại Cơ sở cai nghiện ma túy số 2; địa chỉ: Xã Đại Thắng, huyện Tiên Lãng, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện và các lời khai của chị Nguyễn Thị Minh H có trong hồ sơ thể hiện:

Chị Nguyễn Thị Minh H và anh Ngô Việt D kết hôn trên cơ sở tự nguyện tìm hiểu và có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân phường Lam Sơn, Quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng vào năm 2011.

Quá trình chung sống, thời gian đầu vợ chồng hòa thuận hạnh phúc và mua được một căn nhà tại Quận Hải An, Hải Phòng sinh sống, đến năm 2014 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân do vợ chồng bất đồng về quan điểm sống, cách sống, anh D thường xuyên tụ tập bạn bè chơi bời không quan tâm đến vợ con và gia đình. Sau khi xảy ra mâu thuẫn vợ chồng đã bán nhà về ở với bố mẹ anh D tại phường Lam Sơn, Quận Lê Chân, Hải Phòng. Chị H và gia đình đã nhiều lần động viên khuyên giải anh D nhưng không có kết quả. Chị H đã gửi đơn đến Tòa án nhân dân Quận Hải An đề nghị giải quyết cho vợ chồng được ly hôn nhưng anh D đã đến Tòa án trình bày không muốn ly hôn, chị cũng đã rút đơn ly hôn với mong muốn anh D thay đổi nhưng cuộc sống vợ chồng không cải thiện được nên đến tháng 5 năm 2015 chị H đã mang con về nhà mẹ đẻ ở từ đó hai vợ chồng sống ly thân. Sau khi ly thân chị H cũng đã gửi đơn đến Tòa án nhân dân Quận Lê Chân đề nghị giải quyết cho vợ chồng được ly hôn nhưng anh D gây cản trở và chị lại rút đơn về với mong muốn cải thiện cuộc sống vợ chồng nhưng cũng không có kết quả.. Nay chị xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn đã trầm trọng nên chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh D.

Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung tên là Ngô Diệu A, sinh ngày 21/10/2013. Nếu ly hôn, thì chị H nhận trực tiếp nuôi dưỡng con chung đến khi con thành niên. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung hai bên tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về tài sản chung: Vợ chồng tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã thông báo về việc thụ lý vụ án, làm việc với anh D và tống đạt các văn bản tố tụng của Tòa án cho anh, tuy nhiên anh D không ký nhận. Tòa án đã tiến hành hòa giải cho vợ chồng anh D, chị H tại cơ sở cai nghiện ma túy số 2, buổi hòa giải có sự chứng kiến của cán bộ cơ sở cai nghiện. Anh D trình bày vợ chồng không thể đoàn tụ và đồng ý hết các quan điểm của chị H về việc ly hôn nhưng không ký vào bất kỳ biên bản nào. Điều đó cho thấy anh D đã tự từ bỏ quyền cũng như không thực hiện nghĩa vụ của mình trước pháp luật, không còn quan tâm đến cuộc sống gia đình với chị H.

Tại biên bản làm việc với gia đình thể hiện: Vợ chồng chị H và anh D có xảy ra mâu thuẫn đánh cãi nhau, do hai bên bất đồng nhau về quan điểm sống, cách sống, thêm vào đó anh D nghiện ma túy nên mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng. Thực tế chị H đã 02 lần đến Tòa án để giải quyết việc ly hôn nhưng chị đã rút đơn về nhằm cố tình khuyên giải anh D nhưng không có kết quả. Đến tháng 12 năm 2016 vợ chồng sống ly thân mỗi người một nơi, không ai quan tâm đến ai.

Đến tháng 3 năm 2018 thì gia đình đã cho anh D đi cai nghiện ở cơ sở cai nghiện số 02 Tiên Lãng, Hải Phòng. Vợ chồng không còn khả năng đoàn tụ.

Kiểm sát viên tham gia phát biểu ý kiến tại phiên tòa: Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng các quy định về trình tự thủ tục về pháp luật tố tụng tại phiên tòa; nguyên đơn đã chấp hành đúng các quy định về tố tụng; bị đơn chấp hành chưa đúng quy định của pháp luật mặc dù Tòa án đã triệu tập đến phiên tòa lần thứ hai nhưng anh D vẫn vắng mặt không có lý do. Vì vậy Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án là đúng theo quy định tại khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về nội dung vụ án: Chị Nguyễn Thị Minh H và anh Ngô Việt D lấy nhau có đăng ký kết hôn vì vậy hôn nhân là hợp pháp.

Trong quá trình chung sống, vợ chồng có nhiều mâu thuẫn trầm trọng, không có khả năng đoàn tụ, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần xử cho chị H được ly hôn anh D theo quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình.

Về con chung: Vợ chồng có có 01 con chung tên là Ngô Diệu A, sinh ngày 21/10/2013. Khi ly hôn, đề nghị giao con chung cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng nuôi đến khi con thành niên. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung hai bên tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.

Về tài sản chung: Vợ chồng tự thỏa thuận nên không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.

Về án phí: Chị H phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận xét:

[1] Về tố tụng: Theo đơn khởi kiện xin ly hôn và xác nhận tạm trú thể hiện: Anh Ngô Việt D, sinh năm 1983; ĐKHKTT: Số 2/315 L, phường L, Quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng; Hiện đang cai nghiện tự nguyện tại Cơ sở cai nghiện ma túy số 2; địa chỉ: Xã Đại Thắng, huyện Tiên Lãng, thành phố Hải Phòng. Do vậy căn cứ vào các điều 28, 35, 39 Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án khởi kiện xin ly hôn giữa nguyên đơn là chị Nguyễn Thị Minh H và bị đơn là anh Ngô Việt D thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng.

[2] Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, bị đơn là anh Ngô Việt D vắng mặt lần thứ 02 không có lý do mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ. Bởi vậy, căn cứ vào Điều 227, Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt đối với anh Ngô Việt D.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Minh H và anh Ngô Việt D kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Lam Sơn, Quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng vào năm 2011 nên là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống, thời gian đầu vợ chồng hòa thuận hạnh phúc nhưng đến năm 2014 thì xảy ra mâu thuẫn; nguyên nhân là do hai bên bất đồng quan điểm sống, cách sống, anh D thường xuyên tụ tập bạn bè chơi bời mắc nghiện ma túy, không quan tâm đến vợ con và gia đình. Chị H và gia đình đã nhiều lần động viên khuyên giải anh D nhưng không có kết quả nên đến tháng 5 năm 2015 chị H đã mang con về nhà mẹ đẻ ở từ đó hai vợ chồng sống ly thân từ đó đến nay. Tòa án đã nhiều lần làm việc với anh D nhưng có thái độ coi thường pháp luật và không ký nhận bất kỳ biên bản nào, chứng tỏ sự bỏ mặc, không quan tâm đến hạnh phúc gia đình. Đến nay chị H xác định tình cảm vợ chồng không còn mục đích hôn nhân không đạt được. Bởi vậy, chị H yêu cầu được ly hôn anh D là phù hợp với thực tế, cần được chấp nhận theo quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình.

[4] Về con chung: Chị H và anh D có có 01 con chung tên là Ngô Diệu Anh, sinh ngày 21/10/2013. Nếu ly hôn thì chị H xin nhận trực tiếp nuôi dưỡng con chung đến khi con thành niên. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung hai bên tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Hội đồng xét xử xét thấy: Anh D hiện đang đi cai nghiện tại cơ sở cai nghiện số 02 Tiên Lãng. Qua làm việc với đại diện gia đình cũng có ý kiến, nếu vợ chồng ly hôn thì nên giao con chung cho chị H nuôi dưỡng. Do vậy khi ly hôn cần giao con chung cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp quy định tại Điều 81,82,83 Luật Hôn nhân và gia đình. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung, chị H và anh D không có yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xét.

[5] Về tài sản chung: Chị H và anh D không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xét.

[6] Về án phí: Chị H phải nộp 300.000 (ba trăm nghìn) đồng tiền án phí ly hôn sơ thẩm theo luật định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các điều 28; 147; 227; 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ các điều 51; 56; 81; 82; 83 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm  2014;

Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Tuyên xử: Chị Nguyễn Thị Minh H được ly hôn anh Ngô Việt D.

Về con chung: Giao con chung của chị Nguyễn Thị Minh H và anh Ngô Việt D tên là Ngô Diệu Anh, sinh ngày 21/10/2013 cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng đến khi con thành niên hoặc có sự thay đổi khác theo quy định pháp luật. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung do hai bên tự thỏa thuận.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm con mà không ai được cản trở.

Về án phí: Chị H phải nộp 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tiền án phí ly hôn sơ thẩm. Chị H đã nộp đủ số tiền án phí là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0005175 ngày 08 tháng 5 năm 2018 tại Chi cục Thi hành án dân sự Quận Lê Chân.

Nguyên đơn có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Bị đơn có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

226
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 56/2018/HNGĐ-ST ngày 04/10/2018 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:56/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Lê Chân - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 04/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;