Bản án 55/2021/HS-ST ngày 23/04/2021 về mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THAN UYÊN, TỈNH LAI CHÂU

BẢN ÁN 55/2021/HS-ST NGÀY 23/04/2021 VỀ MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 23 tháng 4 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Than Uyên, tỉnh Lai Châu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số:

59/2021/TLST- HS ngày 05 tháng 4 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 57/2021/QĐXXST- HS ngày 09 tháng 4 năm 2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lò Văn T; Tên gọi khác: Không; Sinh ngày 19/3/1987 tại huyện Than Uyên, tỉnh Lai Châu;

Nơi cư trú: Bản L, xã M, huyện T, tỉnh L; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Trình độ học vấn: 05/12; Dân tộc: Thái; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Lò Văn N, sinh năm 1968 và bà: Hoàng Thị Ng, sinh năm 1968; Có vợ là Lò Thị L, sinh năm 1988 và có 03 con; Tiền án, Tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ từ hồi 12 giờ 50 phút ngày 01/02/2021 đến ngày 07/02/2021 bị khởi tố và tạm giam về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Than Uyên. (Có mặt).

Những người làm chứng:

- Anh Lò Văn T, sinh năm 1988; Địa chỉ: Bản Là 1, xã Mường Kim, huyện Than Uyên, tỉnh Lai Châu. (Vắng mặt).

1 - Anh Lò Văn Q, sinh năm 1995; Địa chỉ: Bản Là 1, xã Mường Kim, huyện Than Uyên, tỉnh Lai Châu. (Vắng mặt).

- Anh Hà Văn S, sinh năm 1984; Địa chỉ: Bản Là 1, xã Mường Kim, huyện Than Uyên, tỉnh Lai Châu. (Vắng mặt).

- Anh Hà Văn B, sinh năm 1987; Địa chỉ: Bản Là 1, xã Mường Kim, huyện Than Uyên, tỉnh Lai Châu. (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lò Văn T là người nghiện chất ma túy. Khoảng 09 giờ 30 phút ngày 01/02/2021, Lò Văn T điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 25T1 – 09605 của gia đình đi từ nhà tại bản Là 2, xã Mường Kim, huyện Than Uyên lên bản Noong Thăng, xã Phúc Than, huyện Than Uyên, mục đ ích tìm mua Heroine để sử dụng và bán kiếm lời. Tại bản Noong Thăng, T gặp một người đàn ông dân tộc Mông không r nhân thân, lai lịch. Qua nói chuyện, T mua được của người đàn ông đó 02 gói Heroine được gói bằng mảnh nilon màu hồng với giá 300.000 đồng. Lúc trao đổi, mua bán chỉ có T và người đàn ông đó biết với nhau. Mua được Heroine, T đi vào bụi cây ven đường lấy 01 gói Heroine cấu một ít để sử dụng, sử dụng xong, T chia gói Heroine đó thành 11 gói nhỏ, cùng với gói Heroine mua cùng lúc trước tổng là 12 gói gói chung bằng mảnh nilon màu trắng và cất giấu trong túi áo khoác bên trái đang mặc trên người tiếp tục điều khiển xe mô tô quay về. Hồi 11 giờ 50 phút ngày 01/02/2021, tại Khu 8, thị trấn Than Uyên, huyện Than Uyên Lò Văn T bị tổ công tác Đội Cảnh sát giao thông Công an huyện Than Uyên kiểm tra, phát hiện lập biên bản bắt người phạm tội quả tang về hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, vật chứng thu giữ của Lò Văn T là 12 gói Heroine có tổng khối lượng là 0,73 gam. Sau đó , Đội Cảnh sát giao thông Công an huyện Than Uyên đã chuyển toàn bộ vật chứng, tài liệu đối với Lò Văn T đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Than Uyên để giải quyết theo thẩm quyền.

Tại Cơ quan điều tra Lò Văn T còn T thú về những lần phạm tội trước đó mà T đã thực hiện, cụ thể:

Lần 1, 2: Đầu tháng 01/2021 (T không nhớ ngày), T đi từ nhà lên bản Noong Thăng, xã Phúc Than, huyện Than Uyên hỏi mua được 01 gói Heroine của một người đàn ông dân tộc Mông không r nhân thân, lai lịch với giá 300.000 đồng. Mua được Heroine, T mang về nhà cấu một ít sử dụng, số Heroine còn lại T chia thành nhiều gói nhỏ (khoảng 12, 13 gói), sau đó T cầm 02 gói đi ra đường Quốc lộ 32 thuộc địa phận bản Là 1, Là 2 xã Mường Kim để tìm chỗ sử dụng, số Heroine còn lại T cất giấu trong bụi cây gần nhà không cho ai biết. Khoảng 10 giờ cùng ngày, khi T đang ở đường Quốc lộ 32 thuộc địa phận bản Là 2, xã Mường Kim thì có Lò Văn T đến hỏi mua Heroine để sử dụng. T lấy 01 gói Heroine bán cho T với giá 50.000 đồng, lúc trao đổi mua bán chỉ có T và T biết với nhau, số Heroine còn lại T mang đi sử dụng hết. Cách mấy ngày sau, cũng trong tháng 01/2021, tại bản Là 2, xã Mường Kim, T tiếp tục lấy 01 gói Heroine giấu trong bụi cây bán cho T với giá 50.000 đồng.

Lần 3, 4: Khoảng 14 giờ chiều một ngày giữa tháng 01/2021 ( T không nhớ ngày), T đang ở bản Là 1, xã Mường Kim thì có Lò Văn Q đến hỏi mua Heroine để sử dụng, T đồng ý và lấy 01 gói Heroine giấu trong bụi cây bán cho Lò Văn Q với giá 100.000 đồng. Cách hai ngày sau, T tiếp tục lấy 01 gói Heroine cất giấu trong bụi cây bán cho Lò Văn Q lấy số tiền 100.000 đồng.

Lần 5, 6: Cũng trong tháng 01/2021 ( T không nhớ ngày), tại bản Là 2, xã Mường Kim, Lò Văn T tiếp tục bán cho Hà Văn S 01 gói Heroine lấy số tiền 100.000 đồng; Hai ngày sau, T tiếp tục bán cho Hà Văn S lấy số tiền 80.000 đồng.

Số Heroine còn lại cất giấu trong bụi cây gần nhà T đã sử dụng hết. Lần 7: Khoảng ngày 23 hoặc 24/01/2021 ( T không nhớ r ngày), Lò Văn T lên bản Noong Thăng, xã Phúc Than, huyện Than Uyên tìm mua được 01 gói Heroine củ một người đàn ông dân tộc Mông không r nhân thân, lai lịch với giá 200.000 đồng. Mua được Heroine, T đi ra bụi cây ven đường cấu một ít sử dụng, số Heroine còn lại T mang về nhà chia thành nhiều gói nhỏ (T không nhớ bao nhiêu gói) rồi cất giấu trong bụi cây gần nhà. Đến ngày 26/01/2021, Lò Văn T mang 02 gói Heroine lên nhà Lò Văn T chơi, tại nơi ở của T, T đã bán cho T 01 gói Heroine lấy số tiền 100.000 đồng, số Heroine còn lại T đã sử dụng hết.

Lần 8: Khoảng 17 giờ ngày 29/01/2021, T đang ở bản Là 1, xã Mường Kim thì có Hà Văn B đến hỏi mua Heroine sử dụng, T ra bụi cây nơi giấu Heroine lấy 01 gói bán cho B với giá 100.000 đồng. Số Heroine còn lại Lò Văn T đã sử dụng hết.

Đối với tổng số tiền 680.000 đồng do bán Heroine mà có T đã dùng để tiếp tục mua Heroine và tiêu sài hết.

Quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Than Uyên đã mời Lò Văn T, Lò Văn Q, Hà Văn S, Hà Văn B lên ghi lời khai. Lời khai của những người làm chứng phù hợp với lời T thú của Lò Văn T cùng các tài liệu, chứng cứ Cơ quan điều tra đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án.

Ngày 01/02/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Than Uyên đã tiến hành trưng cầu người giám định Tư pháp để mở niêm phong, xác định khối lượng, trích mẫu chất bột, màu trắng thu giữ của Lò Văn T gửi giám định. Tại bản Kết luận giám định tư pháp số 41 ngày 01/02/2021 của người giám định theo vụ việc kết luận: Số chất bột, màu trắng thu giữ của Lò Văn T có tổng khối lượng là 0,73 gam. Tại bản Kết luận giám định số 178/GĐ-KTHS ngày 04/02/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lai Châu kết luận: 01 (Một) mẫu chất bột, màu trắng thu giữ của Lò Văn T gửi giám định là ma túy, loại Heroine.

Đối với chiếc xe mô tô biển kiểm soát 25T1-096.05 tạm giữ của Lò Văn T. Ngày 10/3/2021, Cơ quan điều tra công an huyện Than Uyên nhận được đơn đề nghị của chị Lò Thị L (vợ của Lò Văn T) với nội dung xin lại chiếc xe mô tô do chiếc xe mô tô là phương tiện duy nhất, là tài sản chung của cả gia đình. Xét đề nghị của chị Liên là có căn cứ và việc trả lại chiếc xe mô tô không làm ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án và thi hành án nên ngày 10/3/2021, Cơ quan điều tra đã ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại chiếc xe mô tô biển kiểm soát 25T1-096.05 cho chị Lò Thị Liên là đồng sở hữu tài sản hợp pháp là đúng quy định của pháp luật.

Vật chứng còn lại của vụ án gồm: 0,66 gam Heroine; 10 mảnh nilon màu hồng; 03 mảnh nilon màu trắng; 01 vỏ bì niêm phong ban đầu đều thu giữ của Lò Văn T hiện đang được lưu giữ tại Kho vật chứng Chi cục Thi hành án dân sự huyện Than Uyên, tỉnh Lai Châu.

Bản cáo trạng số 38/CT-VKS ngày 30/3/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Than Uyên tỉnh Lai Châu truy tố bị cáo Lò Văn T về tội: “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm b, khoản 2 Điều 251 của Bộ luật hình sự. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Than Uyên, tỉnh Lai Châu giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo về tội danh và điều khoản áp dụng, đề nghị Hội đồng xét xử:

Căn cứ điểm b, khoản 2 Điều 251; điểm r, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Lò Văn T từ 07 năm đến 07 năm 06 tháng tù. Thời hạn thi hành hình phạt tù tính từ ngày 01/02/2021. Không áp dụng hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Đề nghị tịch thu tiêu hủy 01 bì niêm phong bên trong đựng 0,66 gam Heroine; 01 phong bì Công an huyện Than Uyên bên trong đựng 10 mảnh nilon màu hồng, 03 mảnh nilon màu trắng, 01 vỏ bì niêm phong ban đầu.

Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm đ khoản 1 Điều 12, Điều 15 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, đề nghị miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Lò Văn T.

Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo Lò Văn T khai nhận hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng mà Viện kiểm sát truy tố. Bị cáo không tranh luận với luận tội của Viện kiểm sát.

Lời nói sau cùng của bị cáo trước khi Hội đồng xét xử nghị án: Bị cáo mong Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Than Uyên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Than Uyên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình T, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tranh tụng tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo:

Tại phiên tòa, bị cáo Lò Văn T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với bản Kết luận điều tra, bản Cáo trạng đã truy tố và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, như vậy có đủ cơ sở khẳng định: Trong các tháng 01, 02/2021, Lò Văn T đã 03 lần thực hiện hành vi mua trái phép 04 gói Heroine với tổng số tiền là 800.000 đồng của những người không rõ nhân thân, lai lịch, mục đích để sử dụng và bán kiếm lời. Mua được Heroine, T mang về nhà chia thành nhiều gói nhỏ cất giấu không cho ai biết. Trong tháng 01/2021 tại bản Là 1, bản Là 2 xã Mường Kim, huyện Than Uyên, vào các thời gian khác nhau Lò Văn T đã 08 lần thực hiện hành vi bán trái phép 08 gói Heroine thu lợi bất chính tổng số tiền 680.000 đồng, cụ thể: T bán cho Lò Văn T 03 lần, mỗi lần bán một gói Heroine thu lợi bất chính 200.000 đồng; T bán cho Lò Văn Q 02 lần, mỗi lần bán một gói Heroine thu lợi bất chính 200.000 đồng; T bán cho Hà Văn S 02 lần, mỗi lần bán một gói Heroine thu lợi bất chính 180.000 đồng; T bán cho Hà Văn B 01 gói Heroine thu lợi bất chính 100.000 đồng. Hồi 11 giờ 50 phút ngày 01/02/2021, tại Khu 8, thị trấn Than Uyên, huyện Than Uyên, Lò Văn T bị Đội Cảnh sát giao thông Công an huyện Than Uyên bắt quả tang về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, vật chứng thu giữ của T là 12 gói Heroine có tổng khối lượng 0,73 gam mục đích T tàng trữ để sử dụng và bán kiếm lời. Ngày 07/02/2021, Lò Văn T bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Than Uyên khởi tố về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Bị cáo Lò Văn T là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b, khoản 2 Điều 251 của Bộ luật hình sự.

Như vậy, nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Than Uyên truy tố bị cáo về tội danh, điều khoản áp dụng là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội:

Vụ án có tính chất rất nghiêm trọng. Do nghiện ma túy và muốn thu lợi bất chính từ việc mua bán trái phép chất ma túy, bị cáo Lò Văn T đã bất chấp sự nghiêm cấm của pháp luật thực hiện hành vi tàng trữ trái phép 0,73 gam Heroine, mục đích để sử dụng và bán kiếm lời, cùng với việc bị cáo đã 08 lần, ở những thời điểm khác nhau bán trái phép chất ma túy thu lợi bất chính 680.000 đồng. Hành vi của bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý Nhà nước ta đối với các chất ma túy và làm ảnh hưởng tới trật T, trị an, an toàn xã hội tại địa phương do vậy cần thiết phải có mức án tương xứng, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục cho bị cáo trở thành công dân tốt và phòng ngừa chung cho toàn xã hội.

[4] Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

Về nhân thân: Bị cáo Lò Văn T sinh ra tại huyện Than Uyên, trưởng thành xây dựng gia đình với chị Lò Thị L và có 03 con. Bị cáo còn trẻ, chưa có tiền án, tiền sự, nhưng do không chịu khó làm ăn, lao động sản xuất, tu dưỡng, rèn luyện bản thân nên bị cáo đã mắc tệ nạn xã hội nghiện chất ma túy. Để có ma túy sử dụng cho nhu cầu của bản thân và thu lợi bất chính từ việc mua bán trái phép chất ma túy, bị cáo đã bất chấp sự nghiêm cấm của pháp luật thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Lò Văn T đã T thú ra những lần mua bán trái phép chất ma túy mà bị cáo thực hiện, đồng thời, thành khẩn khai nhận về hành vi phạm tội của mình. Bị cáo là người dân tộc thiểu số, sinh sống tại bản Là 2, xã Mường Kim, huyện Than Uyên là vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn theo Quyết định số 72/QĐ-TTg ngày 16/01/2021 của Thủ tướng Chính phủ về tiếp tục áp dụng Quyết định số 582/QĐ-TTg ngày 28/4/2017 của Thủ tướng Chính phủ đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm r, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với bị cáo. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[5] Về hình phạt bổ sung: Xét điều kiện, hoàn cảnh kinh tế của bị cáo khó khăn. Do đó, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự đối với bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng: Đối với vật chứng còn lại của vụ án là 0,66 gam Heroine thu giữ của Lò Văn T là vật Nhà nước cấm lưu hành nên cần tịch thu để tiêu hủy. Đối với 10 mảnh nilon màu hồng, 03 mảnh nilon màu trắng, 01vỏ bì niêm phong ban đầu là những vật chứng không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu để tiêu hủy.

[7] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Lò Văn T là người dân tộc thiểu số, sinh sống tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn theo Quyết định số 72/QĐ-TTg ngày 16/01/2021 của Thủ tướng Chính phủ về tiếp tục áp dụng Quyết định số 582/QĐ-TTg ngày 28/4/2017 của Thủ tướng Chính phủ, tại phiên tòa bị cáo xin miễn án phí. Do đó, Hội đồng xét xử miễn cho bị cáo Lò Văn T 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Như vậy, đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Than Uyên về mức hình phạt, xử lý vật chứng, án phí đối với bị cáo là có căn cứ nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[8] Các vấn đề khác: Về nguồn gốc ma túy, bị cáo Lò Văn T khai mua của những người không r nhân thân, lai lịch, Cơ quan điều tra không có căn cứ để điều tra, xử lý, Hội đồng xét xử không xem xét.

Đối với Lò Văn T, Lò Văn Q, Hà Văn S, Hà Văn B là những người đã mua Heroine của Lò Văn T, mục đích để sử dụng. Số Heroine còn lại mua được, T, Q, S, B đã sử dụng hết. Cơ quan điều tra đã ra các Quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy đối với Lò Văn T, Lò Văn Q, Hà Văn S, Hà Văn B là đúng quy định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

[1] Căn cứ điểm b, khoản 2 Điều 251; điểm r, s khoản 1, khoản 2 Điều 51;

Điều 38 của Bộ luật hình sự.

- Tuyên bố bị cáo Lò Văn T phạm tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”.

- Xử phạt bị cáo Lò Văn T 07 (Bảy) năm tù. Thời hạn thi hành hình phạt tù tính từ ngày 01/02/2021.

[2] Về vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tuyên tịch thu tiêu hủy 01 bì niêm phong bên trong đựng 0,66 gam Heroine; 01 phong bì Công an huyện Than Uyên bên trong đựng 10 mảnh nilon màu hồng, 03 mảnh nilon màu trắng, 01 vỏ bì niêm phong ban đầu.

(Tình trạng vật chứng theo như biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 05 tháng 4 năm 2021 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Than Uyên và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Than Uyên, tỉnh Lai Châu).

[3] Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm đ khoản 1 Điều 12, Điều 15 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, miễn cho bị cáo Lò Văn T 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

[4] Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án lên Toà án nhân dân cấp trên./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

159
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 55/2021/HS-ST ngày 23/04/2021 về mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:55/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Than Uyên - Lai Châu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;