Bản án 55/2021/HS-ST ngày 19/05/2021 về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T, THÀNH PHỐ H

BẢN ÁN 55/2021/HS-ST NGÀY 19/05/2021 VỀ TỘI TỔ CHỨC SỬ DỤNG TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 19 tháng 5 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, thành phố H xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 55/2021/TLST-HS ngày 29 tháng 4 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 50/2021/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 5 năm 2021 đối với bị cáo:

Ngô Việt T, sinh ngày 20/10/1990 tại thành phố H; Nơi cư trú: Thôn B, xã A, huyện T, thành phố H; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Ngô Văn T và bà Trần Thị T (đã chết); Có vợ là Nguyễn Thị Q sinh năm 1992 và có 02 con, con lớn sinh năm 2016, con nhỏ sinh năm 2018; Tiền án, tiền sự: Không; Bị áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt tạm giam từ ngày 28/12/2020. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 16 giờ 15 phút ngày 22/12/2020, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an huyện T kết hợp với Công an xã N tiến hành kiểm tra phát hiện tại phòng hát số 09 của quán Karaoke H ở thôn B, xã N có nhóm đối tượng có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy. Gồm có: Ngô Việt T; Lê Văn C sinh năm 1995 trú tại thôn S, xã T, huyện T; Nguyễn Quang V sinh năm 1983 trú tại thôn L, xã A, huyện T; Đặng Thị T sinh năm 1984 trú tại thôn S, xã T, huyện T; Hoàng Thị H sinh ngày 07/4/2003, Nguyễn Thị L sinh năm 1998, Nguyễn Thị T sinh năm 1996 đều trú tại thôn B, xã N, huyện T. Quá trình bắt giữ còn có đối tượng Nguyễn Thị H sinh năm 1977 trú tại thôn B, xã N, huyện T là chủ quán Karaoke H.

Vật chứng thu giữ gồm: 01 hình tròn in họa tiết, đường kính 20 cm, trong lòng còn bám dính tinh thể màu trắng được thu gom vào 01 túi nylon kích thước 05 cm x 08 cm; 01 thẻ nhựa màu đen, kích thước 06 cm x 08 cm, trên thẻ có in hình người còn bám dính tinh thể màu trắng; 01 ống bằng kim loại màu đen, dài 13 cm còn bám dính tinh thể màu trắng; 01 tẩu tự cuốn bằng tờ tiền polime mệnh giá 10.000 đồng được bọc ngoài bằng vỏ bao thuốc lá và 01 vỏ đầu lọc thuốc lá còn bám dính tinh thể màu trắng; 01 tờ tiền polime mệnh giá 20.000 đồng còn bám dính tinh thể màu trắng; 01 túi nylon màu trắng trong suốt kích thước 05 cm x 04 cm, bên trong chứa tinh thể màu trắng thu tại nền phòng hát số 09; 01 túi nylon màu trắng, kích thước 30 cm x 38 cm. Ngoài ra Cơ quan Công an thu của Ngô Việt T, Nguyễn Thị L, Đặng Thị T, Nguyễn Quang V 04 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone.

Tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở và khu vực có liên quan của Ngô Việt T không thu giữ đồ vật, tài liệu gì liên quan.

Tiến hành xét nghiệm thành phần nước tiểu của các đối tượng, cho kết quả: Nguyễn Quang V, Lê Văn C, Hoàng Thị H dương tính với chất ma túy Ketamine. Ngô Việt T, Đặng Thị T, Nguyễn Thị L dương tính với Ketamine và MDMA. Nguyễn Thị T âm tính. Tất cả các đối tượng đều không phải là người nghiện ma túy. Riêng Hoàng Thị H không xác định được tình trạng nghiện do H (17 tuổi 08 tháng 15 ngày) chưa đủ 18 tuổi nên Cơ sở cai nghiện ma túy G không nhận.

Tại Bản Kết luận giám định số 67/KLGĐ-MT ngày 25/12/2020 của hòng k thuật Hình sự, Công an thành phố H kết luận: Tinh thể màu trắng bám dính trên hình tròn in họa tiết, trên tẩu tự cuốn bằng tờ tiền polyme mệnh giá 10.000 đồng, trên 01 tờ tiền polyme mệnh giá 20.000 đồng, trên 01 thẻ nhựa màu đen kích thước 06cm x 08cm, trên 01 ống bằng kim loại màu đen dài 13cm đều là ma túy Ketamine, không đủ điều kiện xác định khối lượng. Tinh thể màu trắng trên hình tròn in họa tiết có khối lượng 0,15 gam; tinh thể màu trắng chứa trong 01 túi nylon tại nền phòng hát số 09 có khối lượng 0,90 gam đều là ma túy Ketamine.

Tại Cơ quan điều tra:

Ngô Việt T khai nhận: Khoảng 14 giờ 30 phút ngày 22/12/2020 trong lúc đang ở nhà thì Ngô Việt T nảy sinh ý định đi hát Karaoke và sử dụng ma túy Ketamine. T gọi điện cho Đặng Thị T, Nguyễn Quang V, Lê Văn C rủ đi hát và sử dụng ma túy cùng. Sau đó T nhắn tin cho Nguyễn Thị L là nhân viên của quán Karaoke H nhờ L thuê phòng hát và 03 nhân viên nữ để phục vụ. Trước khi đi T mang theo 01 túi nylon màu trắng bên trong chứa ma túy Ketamine (do T mua của một người có tên là C chưa xác định được căn cước, lai lịch với giá 1.800.000 đồng trước đó mấy ngày) và 01 hình tròn in họa tiết, 01 tẩu bằng kim loại màu đen và 01 thẻ nhựa họa tiết hình người (T mua trên mạng), là các dụng cụ để sử dụng ma túy. T đón Đặng Thị T đến quán Karaoke H và gặp V, C tại quán. L dẫn cả nhóm vào phòng hát số 09 và bố trí L, H, T phục vụ. Sau khi ngồi hát khoảng 20 phút, T lấy, thẻ, tẩu đã chuẩn bị sẵn lên mặt bàn. Do tẩu kim loại khó sử dụng nên T lấy 01 tờ tiền polyme mệnh giá 10.000 đồng cuốn thành tẩu, rồi bỏ túi Ketamine đổ ra đứa một phần, phần còn lại T cất trong người, dùng thẻ xào, kẻ thành nhiều đường, T để đứa trên mặt bàn và mời mọi người trong phòng sử dụng. T sử dụng trước 02 đường sau đó C, V, Đặng Thị T, L, H tự sử dụng ma túy, Nguyễn Thị T không sử dụng ma túy. Quá trình sử dụng T đã lấy tờ tiền polyme mệnh giá 20.000 đồng để cạo, vét, gom ma túy trên đứa. Đến khoảng 16 giờ 15 phút cùng ngày, lực lượng công an vào kiểm tra. Do sợ hãi nên T đã ném túi nylon ma túy giấu trên người vào góc phòng. Số ma túy còn lại trên và số ma túy trong túi nylon nếu không bị lực lượng công an phát hiện thì T tiếp tục bỏ ra để sử dụng hết. Việc thuê phòng hát, nhân viên và sử dụng ma túy do T bỏ tiền ra mời mọi người, T không yêu cầu ai phải đóng góp. Lý do trong thành phần nước tiểu của T có ma túy MDMA là do trước đó T sử dụng tại nơi khác.

Các đối tượng Đặng Thị T, V, C, H, L, Nguyễn Thị T khai nhận như nội dung nêu trên. Việc sử dụng ma túy tại phòng hát số 09 không ai phải trả tiền, Ngô Việt T mời mọi người. Lý do trong thành phần nước tiểu của L, Đặng Thị T có ma túy MDMA là do trước đó L, Đặng Thị T sử dụng tại nơi khác. Nguyễn Thị H chủ quán Karaoke H khai không biết, không tham gia vào việc sử dụng ma túy cùng các đối tượng ở phòng hát số 09 của quán.

Đối với 03 chiếc điện thoại cơ quan công an thu giữ gồm: 01 chiếc điện thoại di động gắn sim số 0368605905 của Đặng Thị T, 01 chiếc điện thoại di động gắn sim số 0383305520 của Nguyễn Thị L và 01 chiếc điện thoại di động gắn sim số 0338433422 của V, quá trình điều tra xác định không liên quan đến hành vi phạm tội nên Cơ quan điều tra đã trả lại cho T, L, V.

Các đối tượng Lê Văn C, Nguyễn Quang V, Đặng Thị T, Nguyễn Thị L, Hoàng Thị H có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, Công an huyện T đã ra quyết định xử phạt hành chính. Nguyễn Thị T không sử dụng ma túy nên Cơ quan điều tra không xử lý.

Đối với Nguyễn Thi H là chủ quán Karaoke H, kết quả điều tra xác định Nguyễn Thị H không biết việc các đối tượng sử dụng trái phép chất ma túy tại phòng hát của quán nên Cơ quan điều tra không xử lý về hành vi chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy.

Vật chứng của vụ án gồm: 01 phong bì niêm phong chất ma túy còn lại sau giám định; 01 hộp giấy niêm phong, tẩu tự cuốn bằng tờ tiền polyme mệnh giá 10.000 đồng, ống kim loại, thẻ nhựa, tờ tiền polyme mệnh giá 20.000 đồng; 01 túi nylon màu trắng đục; 01 điện thoại đi động nhãn hiệu Iphone màu vàng gắn sim số 0358558690 đã qua sử dụng thu của Ngô Việt T; chuyển Chi cục Thi hành án dân sự huyện T, thành phố H quản lý.

Bản Cáo trạng số 64/CT-VKSTN ngày 28 tháng 4 năm 2021 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện T, thành phố H đã truy tố Ngô Việt T về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” theo các điểm b, c khoản 2 Điều 255 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

Bị cáo Ngô Việt T khai nh n đã thực hiện hành vi phạm tội đúng như nội dung Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T, thành phố H giữ nguyên quan điểm truy tố như nội dung bản Cáo trạng đã công bố và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng các điểm b, c khoản 2 Điều 255, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Ngô Việt T từ 08 năm đến 09 năm tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”. Không áp dụng phạt bổ sung đối với bị cáo. Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong chất ma túy còn lại sau giám định, 01 hộp giấy niêm phong, ống kim loại, thẻ nhựa, 01 túi nylon màu trắng đục; tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước 02 tờ tiền polyme (01 tờ tiền mệnh giá 10.000 đồng và 01 tờ tiền mệnh giá 20.000 đồng); tịch thu phát mại sung vào ngân sách Nhà nước 01 chiếc điện thoại di động gắn sim số 0358558690 thu giữ của bị cáo. Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật .

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nh n định như sau:

[1]. Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện T, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân huyện T, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về tội danh và điều luật áp dụng: Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng, kết luận giám định, vật chứng thu giữ cùng các tài liệu, ch ng c khác có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra và công bố công khai tại phiên tòa. Vì vậy, có đủ căn cứ xác định: Bị cáo Ngô Việt T có ý định đi hát Karaoke và sử dụng ma túy Ketamine, để thực hiện ý định nên ngày 22/12/2020 bị cáo Ngô Việt T đã rủ thêm nhiều người gồm Lê Văn C, Nguyễn Quang V, Đặng Thị T, Nguyễn Thị L, Hoàng Thị H, trong đó Hoàng Thị H chưa đủ 18 tuổi (sinh ngày 07/4/2003) sử dụng ma túy Ketamine do bị cáo T cung cấp, đồng thời bị cáo T là người trực tiếp đảo, xào, kẻ ma túy ra và mời mọi người sử dụng ma túy tại phòng hát số 09 của quán Karaoke H thuộc thôn B, xã N, huyện T bị lực lượng công an phát hiện bắt giữ ngày 22/12/2020. Với hành vi nêu trên bị cáo Ngô Việt T đã phạm tội “Tổ ch c sử dụng trái phép chất ma túy” với 02 tình tiết định khung hình phạt là “Đối với 02 người trở lên” và “Đối với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 18 tuổi” theo quy định tại các điểm b, c khoản 2 Điều 255 của Bộ luật Hình sự.

[3]. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp đến sự độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy được pháp luật bảo vệ. Bị cáo nhận thức rõ tác hại của ma túy nhưng không có ý thức phòng tránh mà lại coi thường pháp luật, cất giấu ma túy để tổ chức sử dụng làm ảnh hưởng tới chính sức khỏe bản thân bị cáo và của người khác, trở thành gánh nặng cho gia đình và xã hội. Vì vậy, cần phải xử lý nghiêm, phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới đủ tác dụng giáo dục bị cáo, phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm.

[4]. Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự nên sẽ xem xét khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.

[5]. Về hình phạt bổ sung: Khoản 5 Điều 255 của Bộ luật Hình sự quy định bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Xét thấy, bị cáo Ngô Việt T không có việc làm và thu nh p ổn định, không có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6]. Về xử lý vật chứng: 01 phong bì dấu niêm phong số 67MT/PC09 chứa chất ma túy còn lại sau giám định, 01 hộp giấy niêm phong, ống kim loại, thẻ nhựa và 01 túi nylon màu trắng đục xác định là vật thuộc loại Nhà nước cấm lưu hành và là công cụ phương tiện phạm tội nên cần tịch thu tiêu hủy; đối với 01 tẩu tự cuốn bằng tờ tiền polyme mệnh giá 10.000 đồng và 01 tờ tiền polyme mệnh giá 20.000 đồng xác định vẫn còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước; đối với 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu vàng gắn sim số 0358558690 đã qua sử dụng thu giữ của bị cáo Ngô Việt T dùng để liên lạc rủ các đối tượng sử dụng ma túy và còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu phát mại sung vào ngân sách Nhà nước.

[7]. Trong vụ án này, còn có đối tượng bán ma túy cho Ngô Việt T có tên là “C”, quá trình điều tra chưa xác định được tên tuổi, địa chỉ của đối tượng này nên Cơ quan điều tra tách ra, tiếp tục điều tra, làm rõ xử lý sau là có căn cứ .

[8]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào các điểm b, c khoản 2 Điều 255, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Ngô Việt T 08 (Tám) năm tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giam là ngày 28/12/2020.

- Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào Điều 47 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì dấu niêm phong số 67MT/PC09 chứa chất ma túy còn lại sau giám định, 01 hộp giấy niêm phong, ống kim loại, thẻ nhựa và 01 túi nylon màu trắng đục; tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước 01 tẩu tự cuốn bằng tờ tiền mệnh giá 10.000 đồng và 01 tờ tiền mệnh giá 20.000 đồng; tịch thu phát mại sung vào ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu vàng gắn sim số 0358558690 đã qua sử dụng (theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản và hiếu nhập kho số NK2021/68 ngày 29/4/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện T, thành phố H).

- Về án phí: Căn cứ vào Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về m c thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo Ngô Việt T phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

- Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành dân sự, người phải thi hành dân sự có quyền thỏa thu n thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

196
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 55/2021/HS-ST ngày 19/05/2021 về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy

Số hiệu:55/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;