Bản án 55/2021/HNGĐ-ST ngày 04/06/2021 về tranh chấp hôn nhân gia đình - ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN B, TỈNH ĐỒNG THÁP

BẢN ÁN 55/2021/HNGĐ-ST NGÀY 04/06/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN GIA ĐÌNH - LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 04 tháng 6 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện B xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 205/2021/TLST-HNGĐ ngày 22 tháng 4 năm 2021 về việc: “Tranh chấp hôn nhân và gia đình - Ly hôn, nuôi con, chia tài sản khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 132/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 17 tháng 5 năm 2021, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Trần Thúy L, sinh năm 1993. Địa chỉ: ấp 1, xã A, huyện B, tỉnh Đồng Tháp.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Quốc T, sinh năm 1990.

Địa chỉ: ấp 1, xã A, huyện B, tỉnh Đồng Tháp.

(Nguyên đơn có mặt, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và tại phiên tòa sơ thẩm chị Trần Thúy L là nguyên đơn trình bày:

- Về hôn nhân: Vợ chồng sống chung và có đăng ký kết hôn vào ngày 29/9/2014 tại Ủy ban nhân dân xã A, huyện B, tỉnh Đồng Tháp. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc. Khoảng 02 tháng nay vợ chồng phát sinh mâu thuẫn và ngày càng gay gắt không thể nào hàn gắn lại được. Nguyên nhân là do vợ chồng xảy ra cự cãi, anh T đánh chị L và chị L bỏ về nhà cha mẹ ruột sinh sống từ đó đến nay. Trong thời gian ly thân vợ chồng có hàn gắn tình cảm nhưng chị L không đồng ý quay trở về sống chung với anh T do không còn tình cảm nữa. Nay chị L yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Nguyễn Quốc T.

- Về con chung: Vợ chồng có hai con chung tên Nguyễn Ngọc V, sinh ngày 05/02/2015 và Nguyễn Trọng C, sinh ngày 07/02/2018. Hiện nay con chung đang sống chung với cha mẹ. Khi ly hôn chị L đồng ý giao hai con chung cho anh T được tiếp tục nuôi dưỡng và chị L không cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung: Không có tài sản chung, không yêu cầu giải quyết.

- Về nợ chung: Vợ chồng không có nợ ai và cũng không cho ai nợ.

Theo biên bản hòa giải ngày 14/5/2021, anh Nguyễn Quốc T là bị đơn trình bày:

- Về hôn nhân: Anh T thừa nhận lời trình bày của chị L về thời gian kết hôn và việc vợ chồng có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã A là đúng. Trong cuộc sống vợ chồng cũng xảy ra mâu thuẫn, trong lúc cự cãi với nhau anh T cũng có đánh chị L một bạt tay và chị L bỏ về nhà cha mẹ ruột chị L sinh sống cho đến nay. Trong thời gian ly thân anh T có năn nỉ chị L trở về nhà sinh sống nhưng chị L không đồng ý. Nay anh T nhận thấy vẫn còn tình cảm với chị L nên anh T không đồng ý ly hôn với chị L.

- Về con chung: Vợ chồng có hai con chung tên Nguyễn Ngọc V, sinh ngày 05/02/2015 và Nguyễn Trọng C, sinh ngày 07/02/2018. Hiện nay con chung đang sống chung với cha mẹ. Khi ly hôn anh T yêu cầu được quyền nuôi con và không yêu cầu chị L cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung: Không có tài sản chung, không yêu cầu giải quyết.

- Về nợ chung: Vợ chồng không có nợ ai và cũng không cho ai nợ.

- Tài liệu chứng cứ trong hồ sơ do đương sự cung cấp gồm:

+ Giấy chứng nhận kết hôn (bản chính).

+ Giấy CMND và SHK Trần Thúy L và Nguyễn Quốc T (photo).

+ Trích lục khai sinh con chung (bản sao).

+ Đơn đề nghị không tiến hành hòa giải đối thoại tại Tòa án của chị Trần Thúy L (bản chính).

+ Đơn xin xác nhận nơi cư trú của chị Trần Thúy L (bản chính).

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

Chị Trần Thúy L có đơn yêu cầu được ly hôn, nuôi con với anh Nguyễn Quốc T. Căn cứ vào khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự xác định quan hệ pháp luật trong vụ án là “Tranh chấp hôn nhân và gia đình - Ly hôn, nuôi con”.

Anh Nguyễn Quốc T là bị đơn trong vụ kiện có địa chỉ ở ấp 1, xã A, huyện B, tỉnh Đồng Tháp. Căn cứ vào khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thẩm quyền giải quyết thuộc Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Đồng Tháp.

Anh Nguyễn Quốc T có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Vì vậy, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt anh T là phù hợp theo quy định tại Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Về nội dung vụ án:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị L, anh T sống chung với nhau và có đăng ký kết hôn tại UBND xã A, huyện B, tỉnh Đồng Tháp vào ngày 29/9/2014, do đó hôn nhân giữa chị L và anh Trang là hợp pháp. Chị L cho rằng thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc. Khoảng 02 tháng nay vợ chồng phát sinh mâu thuẫn và ngày càng gay gắt không thể nào hàn gắn lại được. Nguyên nhân là do vợ chồng xảy ra cự cãi, anh T đánh chị L và chị L bỏ về nhà cha mẹ ruột sinh sống từ đó đến nay. Trong thời gian ly thân vợ chồng có hàn gắn tình cảm nhưng chị L không đồng ý quay trở về sống chung với anh T do không còn tình cảm nữa.

Anh T thừa nhận lời trình bày của chị L về thời gian kết hôn và việc vợ chồng có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã A là đúng. Trong cuộc sống vợ chồng cũng xảy ra mâu thuẫn, trong lúc cự cãi với nhau anh T cũng có đánh chị L một bạt tay và chị L bỏ về nhà cha mẹ ruột chị L sinh sống cho đến nay. Trong thời gian ly thân anh T có năn nỉ chị L trở về nhà sinh sống nhưng chị L không đồng ý. Anh T nhận thấy vẫn còn tình cảm với chị L nên anh T không đồng ý ly hôn với chị L nhưng anh T không đưa ra được biện pháp nào để hàn gắn tình cảm vợ chồng và chị L cũng không đồng ý hàn gắn tình cảm với anh T do không còn tình cảm. Như vậy, mục đích hôn nhân của anh, chị không đạt được. Nay chị L yêu cầu ly hôn với anh T là có căn cứ để chấp nhận.

Từ những căn cứ nêu trên đủ cơ sở để xác định hôn nhân giữa chị L và anh T đã mâu thuẫn trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được nên căn cứ vào Điều 51, khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận đơn yêu cầu ly hôn của chị L.

- Về con chung: Vợ chồng có hai con chung tên Nguyễn Ngọc V, sinh ngày 05/02/2015 và Nguyễn Trọng C, sinh ngày 07/02/2018. Khi ly hôn chị L đồng ý giao hai con chung cho anh T được tiếp tục nuôi dưỡng và chị L không cấp dưỡng nuôi con; anh T yêu cầu được quyền nuôi con và không yêu cầu chị L cấp dưỡng nuôi con.

Hội đồng xét xử xét thấy, đây là sự tự nguyện của chị L, anh T và phù hợp theo quy định pháp luật nên chấp nhận. Do đó để con chung tên Nguyễn Ngọc V, sinh ngày 05/02/2015 và Nguyễn Trọng C, sinh ngày 07/02/2018 cho anh T được tiếp tục nuôi dưỡng. Chị L không phải cấp dưỡng nuôi con do anh T không có yêu cầu.

Chị L có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc và giáo dục con chung, không ai được quyền cản trở.

- Về tài sản chung: Chị L, anh T trình bày vợ chồng không có tài sản chung, không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

- Về nợ chung: Chị L, anh T trình bày vợ chồng không có nợ ai và cũng không cho ai nợ nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

* Về án phí:

Chị Trần Thúy L phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý, sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 227, Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý, sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu của chị Trần Thúy L:

- Về hôn nhân: Chị Trần Thúy L được ly hôn với anh Nguyễn Quốc T.

- Về con chung: Anh Nguyễn Quốc T được tiếp tục nuôi dưỡng con chung tên Nguyễn Ngọc V, sinh ngày 05/02/2015 và Nguyễn Trọng C, sinh ngày 07/02/2018. Chị L không phải cấp dưỡng nuôi con do anh T không có yêu cầu.

Chị L có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc và giáo dục con chung, không ai được quyền cản trở.

- Về tài sản chung: Chị L, anh T trình bày vợ chồng không có tài sản chung, không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

- Về nợ chung: Chị L, anh T trình bày vợ chồng không có nợ ai và cũng không cho ai nợ nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Về án phí: Chị L phải chịu 300.000 đồng tiền án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị L đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0012525 ngày 19 tháng 4 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện B. Như vậy tiền án phí chị L đã nộp xong.

Các đương sự được quyền làm đơn kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo C từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

135
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 55/2021/HNGĐ-ST ngày 04/06/2021 về tranh chấp hôn nhân gia đình - ly hôn, nuôi con

Số hiệu:55/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thanh Bình - Đồng Tháp
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 04/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;