Bản án 55/2020/HNGĐ-ST ngày 29/09/2020 về tranh chấp ly hôn - không công nhận quan hệ vợ chồng

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN C, THÀNH PHỐ CẦN THƠ

BẢN ÁN 55/2020/HNGĐ-ST NGÀY 29/09/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN - KHÔNG CÔNG NHẬN QUAN HỆ VỢ CHỒNG

Trong ngày 29 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận C, thành phố Cần Thơ xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 255/2020/TLST-HNGĐ ngày 07 tháng 9 năm 2020 về “Tranh chấp ly hôn – Không công nhận quan hệ vợ chồng”. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 159/2020/QĐXXST- HNGĐ ngày 17 tháng 9 năm 2020, giữa các đương sự:

Nguyên đơn : Ông Võ Văn K, sinh năm: 1966 (Có yêu cầu giải quyết vắng mặt).

Đa chỉ: Khu vực 5, phường A, quận Ư, thành phố Cần Thơ.

Bị đơn: Trương Thị T, sinh năm 1976 (Có yêu cầu giải quyết vắng mặt).

Đa chỉ: Số 36/1A, khu vực E, phường G, quận C, thành phố Cần Thơ.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 07/9/2020 và quá trình giải quyết , nguyên đơn ông Võ Văn K trình bày: Chúng tôi chung sống vào năm 1994, trên cơ sở tự nguyện nhưng không có kết hôn.

Chúng tôi sống hạnh phúc được hơn 10 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng quan điểm, thường xuyên cự cải, mâu thuẫn về kinh tế. Chúng tôi đã ly thân gần 10 năm nay. Mỗi người đều có cuộc sống riêng. Vì vậy, tôi làm đơn yêu cầu Tòa án nhân dân quận C, thành phố Cần Thơ giải quyết cho tôi vấn đề sau:

+ Về quan hệ hôn nhân: Cho tôi được ly hôn với bà Trương Thị T (Không công nhận quan hệ vợ chồng giữa tôi và bà Trương Thị T).

+ Về con chung: có 02 con chung Võ Thị Bé R (nữ), sinh ngày 09/4/1995; Trương Minh Y (nam); sinh ngày 07/3/2008. Cháu R đã trưởng thành nên không yêu cầu giải quyết. Cháu Y hiện tại đang sống với vợ tôi. Tôi đồng ý giao cháu Y cho vợ tôi trực tiếp nuôi dưỡng đến khi trưởng thành. Tôi không cấp dưỡng.

+ Về tài sản chung: Không có.

+ Về nợ chung: Không có.

Bị đơn bà Trương Thị T trình bày:

Tôi thống nhất với trình bày của chồng tôi về quan hệ hôn nhân, con chung, tài sản chung và nợ chung.

Chúng tôi chung sống vào năm 1994 nhưng không có đăng ký kết hôn. Sống hạnh phúc được hơn 10 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng quan điểm, thường xuyên cự cải, mâu thuẫn về kinh tế. Chúng tôi đã ly thân gần 10 năm nay. Mỗi người đều có cuộc sống riêng.

Trước yêu cầu khởi kiện của chồng tôi. Tôi có ý kiến như sau:

+ Về quan hệ hôn nhân: Tôi đồng ý ly hôn với chồng tôi Võ Văn K (Không công nhận quan hệ vợ chồng giữa tôi và ông Võ Văn K).

+ Về con chung: có 02 con chung Võ Thị Bé R (nữ), sinh ngày 09/4/1995; Trương Minh Y (nam); sinh ngày 07/3/2008. Cháu R đã trưởng thành nên không yêu cầu giải quyết. Cháu Y hiện tại đang sống với tôi. Tôi đồng ý trực tiếp nuôi dưỡng cháu Y đến khi trưởng thành. Tôi không yêu cầu chồng tôi cấp dưỡng.

+ Về tài sản chung: Không có.

+ Về nợ chung: Không có.

Vụ án được hòa giải nhưng không thành. Do đó, Tòa án quyết định đưa vụ án ra xét xử theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, Nguyên đơn có đơn xin giải quyết vắng mặt và vẫn giữ yêu cầu khởi kiện. Bị đơn có đơn xin giải quyết vắng mặt và đồng ý với yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn.

Đi diện Viện kiểm sát nhân dân quận C phát biểu quan điểm:

Về tố tụng: Thẩm phán, Thư ký và Hội đồng xét xử thực hiện đúng trình tự, thủ tục tố tụng theo quy định của pháp luật; Người tham gia tố tụng đối với nguyên đơn và bị đơn có yêu cầu xét xử vắng mặt cho nên xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn là phù hợp với quy định tại Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về nội dung vụ án: Từ các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ nhận thấy mâu thuẫn giữa ông K và bà T đã thật sự nghiêm trọng, đời sống hôn nhân không đạt được. Do đó, đề nghị Tòa án chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật: Ông Võ Văn K và bà Trương Thị T chung sống như vợ chồng vào năm 1994 nhưng không có đăng ký kết hôn, việc ông K và bà T chung sống là hoàn toàn tự nguyện, không bị lừa dối, ép buộc. Quá trình chung sống, ông K và bà T phát sinh mâu thuẫn, ông K có đơn khởi kiện yêu cầu không công nhận quan hệ vợ chồng với bà T nên quan hệ pháp luật được xác định là “Tranh chấp ly hôn”, tranh chấp này thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân quận C theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Về thủ tục tố tụng: Nguyên đơn – ông Võ văn K và bị đơn - Trương Thị T có đơn xin giải quyết vắng mặt cho nên Hội đồng xét xử quyết định tiến hành xét xử vụ án (vắng mặt nguyên đơn và bị đơn) theo quy định tại Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[3] Xét quan hệ hôn nhân: Xét yêu cầu xin ly hôn của ông K, Hội đồng xét xử thấy rằng, ông bà tuy tiến tới hôn nhân trên cơ sở tự nguyện, không vi phạm điều kiện kết hôn nhưng hôn nhân của ông, bà được xác lập năm 1994 và cho đến nay không có đăng ký kết hôn là vi phạm quy định tại điều 9 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, do đó cần căn cứ quy định tại khoản 4 điều 3 Thông tư số 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 06/01/2016 để không công nhận quan hệ vợ chồng của ông, bà. Xét thấy, giữa ông, bà có thời gian chung sống hạnh phúc được khoảng 10 năm. Tuy nhiên, đến năm 2010 mâu thuẫn phát sinh, vợ chồng thường xuyên cự cãi, cả hai đã ly thân từ đó đến nay đã hơn 10 năm. Hiện tại, cả hai không muốn duy trì mối quan hệ sống chung. Ngoài ra, tại phiên hòa giải ngày 17/9/2020 thì bà T cũng đồng ý ly hôn với ông K, điều này chứng tỏ bà T cũng không tha thiết níu kéo mối hôn nhân này, do vậy ông K yêu cầu không công nhận mối quan hệ vợ chồng giữa ông với bà T là hoàn toàn phù hợp với quy định pháp luật nghĩ nên chấp nhận yêu cầu này của ông K, không công nhận mối quan hệ vợ chồng giữa ông với bà T.

[4] Về con chung: Có 02 con chung Võ Thị Bé R (nữ), sinh ngày 09/4/1995; Trương Minh Y (nam); sinh ngày 07/3/2008. Cháu R đã trưởng thành nên không yêu cầu giải quyết.

Căn cứ vào khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định: “Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con”.

Tại bản tự khai ngày 17/9/2020 thì cháu Y có nguyện vọng sống với mẹ (bút lục 32). Ngoài ra, hiện tại cháu Y đang sống chung với bà T. Bà T cũng có nguyện vọng được trực tiếp nuôi cháu Y đến khi trưởng thành. Tại biên bản hòa giải ngày 17/9/2020 thì ông K cũng đồng ý giao cháu Y cho bà T trực tiếp nuôi dưỡng đến khi trưởng thành. Nhằm tạo điều kiện về mặt vật chất và tinh thần cho cháu Y tránh làm xáo trộn cuộc sống của cháu. Vì vậy, việc giao cháu Y cho bà T trực tiếp nuôi dưỡng sau khi ly hôn là phù hợp quy định pháp luật và cũng đảm bảo cuộc sống cho cháu Y. Về cấp dưỡng nuôi con: Bà T không yêu cầu ông K cấp dưỡng cho nên không đặt ra vấn đề cấp dưỡng nuôi con.

Dành quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung cho ông K theo quy định của pháp luật, không ai được quyền ngăn cản.

[5] Về tài sản chung, nợ chung: Nguyên đơn và bị đơn khai không có. Không yêu cầu Tòa án giải quyết. Nếu sau này có ai tranh chấp sẽ tách ra giải quyết thành vụ kiện khác.

[6] Về án phí hôn nhân sơ thẩm: Nguyên đơn ông Võ Văn K phải chịu theo quy định của pháp luật.

Đối với ý kiến của đại diện Viện kiể m sát:

+ Về việc tuân thủ theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa cũng như đương sự là phù hợp với quy định của pháp luật.

+ Về nội dung giải quyết vụ án: Với những phân tích nêu trên về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn nên đề nghị của Kiểm sát viên về nội dung này là phù hợp.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 228, Điều 266, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

- Điều 9, Điều 14 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

- Thông tư 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 06/01/2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ trưởng Bộ Tư pháp.

- Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Võ Văn K về không công nhận quan hệ vợ chồng với bà Trương Thị T.

1. Về quan hệ hôn nhân: Không công nhận quan hệ vợ chồng giữa ông Võ Văn K và bà Trương Thị T.

2. Về con chung: Võ Thị Bé R (nữ), sinh ngày 09/4/1995; Trương Minh Y (nam); sinh ngày 07/3/2008. Cháu R đã trưởng thành nên không yêu cầu giải quyết. Giao cháu Y cho bà T trực tiếp nuôi dưỡng đến khi trưởng thành. Ghi nhận bà T không yêu cầu ông K cấp dưỡng nuôi con.

Dành quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung cho ông K theo quy định của pháp luật, không ai được quyền ngăn cản.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Nếu sau này có ai tranh chấp sẽ tách ra giải quyết thành vụ kiện khác.

4. Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Ông Võ Văn K phải chịu 300.000 đồng. Chuyển tiền tạm ứng án phí ông K đã nộp, theo biên lai thu số 006326 ngày 07/9/2020 của Chi cục thi hành án dân sự quận C, thành phố Cần Thơ thành án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm phải chịu. Ông K đã nộp xong án phí.

5. Quyền kháng cáo: Đương sự được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

191
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 55/2020/HNGĐ-ST ngày 29/09/2020 về tranh chấp ly hôn - không công nhận quan hệ vợ chồng

Số hiệu:55/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Cái Răng - Cần Thơ
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;