Bản án 55/2020/HNGĐ-ST ngày 29/09/2020 về ly hôn và tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH TÂN, TỈNH VĨNH LONG

BẢN ÁN 55/2020/HNGĐ-ST NGÀY 29/09/2020 VỀ LY HÔN VÀ TRANH CHẤP NUÔI CON 

Ngày 29 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bình Tân, tỉnh Vĩnh Long xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 57/2020/TLST-HNGĐ ngày 05 tháng 5 năm 2020 về việc“Ly hôn và tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 49/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 14 tháng 8 năm 2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Hồ Thị Kim N, sinh năm 1993 (có mặt) Nơi cư trú: Ấp 3, xã TH, huyện CĐ, thành phố C.

2. Bị đơn: Anh Huỳnh Văn H, sinh năm 1983 (Vắng mặt) Nơi cư trú: Tổ 05, ấp HL, xã TH, huyện BT, tỉnh V.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản khai và những lời trình bày tiếp theo tại tòa nguyên đơn Hồ Thị Kim N trình bày:

Vào năm 2012 chị và anh Huỳnh Văn H sau một thời gian quen biết, tìm hiểu thì về sống chung với nhau như vợ chồng, không có tổ chức đám cưới, không có nữ trang cưới, nhưng có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã TH, huyện BT, tỉnh V và được cấp giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 21/8/2012.

Sau khi kết hôn chị và anh H sống tại ấp HL, xã TH, huyện BT, tỉnh V và có được 02 con chung là Huỳnh Ngọc G, sinh ngày 07/10/2012 và Huỳnh Văn Tuấn A, sinh ngày 26/01/2015, hiện nay cháu G đang sống với anh H, cháu Tuấn A đang sống chung với chị.

Trong thời gian chung sống chị và anh H không tạo lập được tài sản gì có giá trị, không thiếu nợ ai, cũng không ai thiếu nợ chị và anh H.

Trong thời gian sống chung chị và anh H thường xảy ra mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống với nhau, nguyên nhân là do anh H thường hay uống rượu về đến nhà là vô cớ gây sự, xúc phạm chị và không quan tâm chăm sóc cho gia đình, đôi khi còn đánh đập, bạo hành đối với chị. Chị đã nhiều lần khuyên can anh H thay đổi để vợ chồng hàn gắn lại tình cảm nhưng đều không thành từ đó đời sống vợ chồng không có hạnh phúc. Do không thể chịu đựng được những hành vi của anh H nên chị đã bỏ về nhà cha mẹ ruột ở ấp 3, xã TH, huyện CĐ, thành phố C sinh sống. Hiện mỗi người đều có cuộc sống riêng, không ai quan tâm đến ai.

Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được và không thể kéo dài, do đó chị yêu cầu Tòa án giải quyết những vấn đề sau:

Về hôn nhân: Yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Huỳnh Văn H.

Về con chung:

Đối với cháu Huỳnh Ngọc G, sinh ngày 07/10/2012 chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho anh Huỳnh Văn H được tiếp tục nuôi dưỡng, chị không cấp dưỡng nuôi cháu Huỳnh Ngọc G.

Đối với cháu Huỳnh Văn Tuấn A, sinh ngày 26/01/2015 chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được quyền tiếp tục nuôi dưỡng, chị không yêu cầu anh Huỳnh Văn H cấp dưỡng nuôi cháu Huỳnh Văn Tuấn A.

- Về quan hệ tài sản: Chị và anh H không có tranh chấp, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Ngoài ra chị không còn yêu cầu nào khác Tại phiên tòa:

Chị Hồ Thị Kim N trình bày: Chị vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, chị không yêu cầu sửa đổi, bổ sung gì thêm.

Ý kiến của Kiểm sát viên tại phiên tòa:

Việc tuân theo pháp luật tố tụng: Từ khi thụ lý và trong quá trình giải quyết vụ án Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án đã thực hiện đúng quy định của pháp luật về tố tụng. Đối với người tham gia tố tụng kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử vào nghị án thì nguyên đơn đã chấp hành đúng theo quy định, bị đơn chưa chấp hành đúng quy định (không tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải vào các ngày 11/6/2020, 29/6/2020 và phiên tòa ngày 01/9/2020).

Quan điểm về việc giải quyết nội dung vụ án: Đề nghị chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Hồ Thị Kim N đối với anh Huỳnh Văn H. Về con chung: Giao cháu Huỳnh Ngọc G cho anh Huỳnh Văn H tiếp tục nuôi dưỡng, giao cháu Huỳnh Văn Tuấn A cho chị N tiếp tục nuôi dưỡng, chị N và anh H chưa phải cấp dưỡng nuôi con; chị N và anh H có quyền và nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Về quan hệ tài sản: Không tranh chấp nên không đặt ra xem xét giải quyết. Về án phí: Buộc chị Hồ Kim N nộp 300.000 đồng tiền án phí sơ thẩm (chị N được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp theo quy định)

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xem xét tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Xét nguyên đơn Hồ Thị Kim N yêu cầu Tòa án giải quyết về việc ly hôn và tranh chấp về nuôi con với bị đơn Huỳnh Văn H cư trú tại tổ 05, ấp HL, xã TH, huyện BT, tỉnh V là quan hệ pháp luật thuộc thẩm quyền thụ lý, giải quyết của Tòa án nhân dân huyện BT, tỉnh V theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về thủ tục tố tụng: Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tống đạt các văn bản tố tụng cho các đương sự, tiến hành lập biên bản công khai chứng cứ và hòa giải nhưng bị đơn đều vắng mặt nên không tiến hành hòa giải được; bị đơn không có văn bản trình bày ý kiến, cũng như không giao nộp tài liệu chứng cứ gì cho Tòa. Do đó Tòa án căn cứ vào đơn khởi kiện, kết quả xác minh và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án để đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục chung. Căn cứ theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự Tòa án nhân dân huyện BT xét xử vắng mặt đối với bị đơn Huỳnh Văn H.

[3] Về nội dung:

[3.1] Về quan hệ hôn nhân: Xét chị Hồ Thị Kim N và anh Huỳnh Văn H kết hôn trên tinh thần tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã TH, huyện BT, tỉnh V theo quy định tại Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Trong quá trình chung sống chị N và anh H phát sinh nhiều mâu thuẫn nên chị N khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị ly hôn với anh H. Xét thấy mâu thuẫn vợ chồng giữa chị N và anh H là trầm trọng bởi theo chị N thì trong cuộc sống hôn nhân giữa chị và anh H thường xuyên bất đồng quan điểm sống, nguyên nhân là do anh H thường hay uống rượu về là vô cớ gây sự với chị và không quan tâm đến gia đình; anh H còn có hành vi xúc phạm, đánh đập, bạo hành đối với chị, chị đã nhiều lần khuyên nhưng anh H không thay đổi. Tại Biên bản lấy lời khai của bà Lê Thị Q (mẹ ruột của anh H) ngày 12/8/2020 (BL 35) thì bà Q cũng xác nhận thời điểm chị N và anh H còn sống chung với bà đã có mâu thuẫn và đánh nhau; xét thấy chị N và anh H sống ly thân nhau đã lâu không thể hàn gắn tình cảm, hiện tại mỗi người đều có cuộc sống riêng không còn quan tâm đến nhau, đời sống chung của vợ chồng không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị N, cho chị N được ly hôn anh H theo quy định tại khoản 1 Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình.

[3.2] Về con chung: Chị Hồ Thị Kim N xác định chị và anh Huỳnh Văn H có 02 con chung là Huỳnh Ngọc G (sinh ngày 07/10/2012) và Huỳnh Văn Tuấn A (sinh ngày 26/01/2015). Sau khi ly hôn, chị N yêu cầu cho chị được tiếp tục nuôi cháu Huỳnh Văn Tuấn A, chị không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi cháu Tuấn A và chị đồng ý để anh H tiếp tục nuôi cháu Huỳnh Ngọc G, tại Bản khai ngày 12/8/2020 (BL 34) cháu G có nguyện vọng là được sống chung với cha. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định giao cháu Huỳnh Văn Tuấn A cho chị Hồ Thị Kim N trực tiếp nuôi dưỡng và giao cháu Huỳnh Ngọc G cho anh Huỳnh Văn H nuôi dưỡng, chị N và anh H được quyền trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục các con cho đến khi đủ 18 tuổi hoặc có quyết định thay đổi khác là phù hợp với quy định pháp luật. Chị N và anh H chưa phải cấp dưỡng nuôi con.

[3.3] Về quan hệ tài sản: Chị N xác định không tranh chấp, không yêu cầu tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

[4] Về án phí: Chị Hồ Thị Kim N phải nộp án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định tại khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự, điểm a khoản 1 Điều 24, điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý, sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[5] Xét đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa là có căn cứ và phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228; Điều 271, khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ các Điều 9, 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình;

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý, sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Hồ Thị Kim N.

1.1. Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Hồ Thị Kim N ly hôn với anh Huỳnh Văn H.

1.2. Về con chung: Giao cháu Huỳnh Văn Tuấn A (sinh ngày 26/01/2015) cho chị Hồ Thị Kim N nuôi dưỡng; giao cháu Huỳnh Ngọc G (sinh ngày 07/10/2012) cho anh Huỳnh Văn H nuôi dưỡng kể từ ngày bản án của Toà án có hiệu lực đến khi cháu Tuấn A và cháu G đủ 18 tuổi hoặc đến khi có quyết định của Toà án về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con. Chị Hồ Thị Kim N và anh Huỳnh Văn H chưa phải cấp dưỡng nuôi con.

Chị Hồ Thị Kim N và anh Huỳnh Văn H có quyền và nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc con chung không ai được cản trở, nhưng không được lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con. Ngoài ra, chị N và anh H còn thực hiện các quyền và nghĩa vụ khác theo quy định tại Điều 81, 82 và 83 của Luật hôn nhân và gia đình.

1.3. Về quan hệ tài sản: Đương sự không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

2. Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Hồ Thị Kim N nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm, chị N được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) đã nộp theo biên lai thu số 0011411 ngày 05/5/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Bình Tân, tỉnh Vĩnh Long.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải chịu thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

3. Quyền kháng cáo: Nguyên đơn được quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án. Đối với bị đơn không có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

136
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 55/2020/HNGĐ-ST ngày 29/09/2020 về ly hôn và tranh chấp nuôi con

Số hiệu:55/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Tân - Vĩnh Long
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;