TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 547/2023/HS-PT NGÀY 16/08/2023 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
Ngày 16 tháng 8 năm 2023 tại trụ sở, Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 220/2023/TLPT-HS ngày 04 tháng 4 năm 2023 đối với bị cáo Nguyễn Thị Hương G và đồng phạm do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 64/2023/HS-ST ngày 01 tháng 3 năm 2023 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.
- Các bị cáo có kháng cáo:
1/Nguyễn Thị Hương G; Giới tính: Nữ; Sinh năm: 1991, tại Cần Thơ; Nghề nghiệp: Giám đốc Công ty Trách nhiệm hữu hạn X; Thường trú và chỗ ở: A1 45OT12B Vinhomes Golden River, số B T, phường B, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Trình độ học vấn: 5/12; Cha: Nguyễn Văn C; Mẹ: Trần Thị Đ; Bị cáo có chồng tên Lâm Uy M (bị cáo trong vụ án) và 02, con lớn sinh năm 2018, nhỏ sinh năm 2020; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo tại ngoại (có mặt).
2/Đặng Minh Anh D; Giới tính: Nam; Sinh năm: 1990, tại Lâm Đồng; Nghề nghiệp: Phó Giám đốc Công ty Trách nhiệm hữu hạn X; Thường trú và chỗ ở: WT1-03.OT09, Tầng D, T, Cao ốc Wilton, số G N, Phường B, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Trình độ học vấn: 12/12; Cha: Đặng Minh Đ1 (chết).; Mẹ: Nguyễn Thị Hồng Y; Bị cáo chưa có vợ con; Tiền án, tiền sự: Không; Tạm giam từ ngày 06/10/2021 (có mặt).
3/Lưu Hùng D1; Giới tính: Nam; Sinh năm: 1986, tại Bà Rịa - Vũng Tàu; Nghề nghiệp: Giám đốc Công ty Trách nhiệm hữu hạn X1; Thường trú và chỗ ở: D1205 chung cư T, D đường N, phường T, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Trình độ học vấn: 12/12; Cha: Lưu Hoàng D2 (chết); Mẹ: Trà Thị T; bị cáo chưa có vợ con; Tiền án, tiền sự: Không; Tạm giam từ ngày 23/8/2022 (có mặt).
4/Lâm Uy M; Giới tính: Nam; Sinh năm: 1976, tại Đồng Nai; Nghề nghiệp:Kinh doanh; Thường trú và chỗ ở: Căn 16OT Tầng 39, Tòa A Vinhomes G, số B T, phường B, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Trình độ học vấn: 12/12; Cha: Lâm Chính (chết); Mẹ: Đặng Thị Đ2; Bị cáo có vợ là Nguyễn Thị Hương G (bị cáo trong vụ án) 05 con lớn nhất sinh năm 2004, nhỏ nhất sinh năm 2020; Tiền án, tiền sự: không; Tạm giam từ ngày 14/10/2022 (có mặt).
Người bào chữa:
1/Người bào chữa cho các bị cáo Nguyễn Thị Hương G, Lâm Uy M theo yêu cầu: Luật sư Đỗ Ngọc O – Đoàn luật sư Thành phố H (có mặt).
2/Người bào chữa cho bị cáo Đặng Minh Anh D3 theo yêu cầu: Luât sư Bùi Quang H - Đoàn Luật sư Thành phố H (có mặt) Luật sư Vũ Văn T1 - Đoàn Luật sư Thành phố H (có mặt).
3/Người bào chữa cho bị cáo Lưu Hùng D4 theo yêu cầu: Luật sư Lê Văn N - Đoàn Luật sư Thành phố H (có mặt).
(Những người tham gia tố tụng khác không có kháng cáo, kháng nghị, không liên quan đến kháng cáo nên Tòa án không triệu tập).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Công ty Trách nhiệm hữu hạn X (gọi tắt là Công ty X), mã số doanh nghiệp: 0314923182, trụ sở tại số A Đ, Phường A, quận B, TP ., ngành nghề kinh doanh: tư vấn, môi giới, đấu giá bất động sản, đấu giá quyền sử dụng đất. Nguyễn Thị Hương G là người đại diện theo pháp luật kiêm Giám đốc; Đặng Minh Anh D3, là Phó Giám đốc.
Ngày 03/10/2019, thay đổi người đại diện pháp luật, chức danh Giám đốc công ty là Bùi Hữu Hoàng M1, sinh năm: 1997, CCCD: 079097002393, địa chỉ: D N, phường Đ, Quận A, TP .. Đồng thời thay đổi thông tin chủ sở hữu là Công ty TNHH M4 do Lâm Uy M làm đại diện. Đến ngày 26/06/2020, Công ty X tiếp tục chuyển đổi người đại diện pháp luật và giám đốc qua cho Đặng Minh Anh D3.
Công ty Trách nhiệm hữu hạn X1 (gọi tắt Công ty X1), địa chỉ: A Bờ Bao T, phường S, quận T, TP ., do Lưu Hùng D4 làm Giám đốc, đại diện pháp luật.
Quá trình hoạt động, từ tháng 7/2018 đến tháng 11/2018 Công ty X không làm thủ tục lập dự án, không được cơ quan chức năng phê duyệt thuận chủ trương và cấp phép đầu tư xây dựng dự án Khu dân cư tại huyện C, huyện H, TP .. Tuy nhiên, các đối tượng thuộc Công ty X đã tự đặt tên dự án, lập quảng cáo, bản vẽ phân nền đất để ký kết hợp đồng thỏa thuận mua bán và cam kết nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất, đối với 02 dự án gồm:
- Dự án Vạn Đạt C, theo hợp đồng nằm tại vị trí: tờ bản đồ số 17, tọa lạc tại xã T, huyện C, TP . do bà Đỗ Thị Tuyết L làm chủ sở hữu. Theo sơ đồ bản vẽ thể hiện dự án được chia thành: Khu A có 39 lô, Khu B có 38 lô, Khu C1 có 23 lô, Khu C2 có 18 lô, Khu D1 có 18 lô, Khu D2 có 17 lô, tổng 115 lô.
- Dự án Vạn Đạt H, theo hợp đồng nằm tại vị trí thửa đất số 521 thuộc tờ bản đồ số 30, tại xã T, huyện H, TP . do ông Trương Tuấn A và bà Nguyễn Thị Minh N1 làm chủ sở hữu. Theo sơ đồ bản vẽ thể hiện dự án được chia thành 21 lô đất.
Sau khi lập các dự án khống nêu trên, Công ty X, do Đặng Minh Anh D3 - Phó Giám đốc làm đại diện, đã ký kết với Công ty X1, do Lưu Hùng D4 - Giám đốc làm đại diện, Hợp đồng hợp tác kinh doanh “V/v Phân phối độc quyền dự án Vạn Đạt H” số VĐ-001/HĐHTKD/VĐ ngày 20/06/2018, nội dung là Công ty X ủy quyền cho Công ty X1 phân phối độc quyền dự án Vạn Đạt H, thuộc xã T, huyện H, TP ..
Đối với mỗi hợp đồng thỏa thuận mua bán về việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất, khi khách hàng ký kết hợp đồng và thanh toán tiền đợt 1 để mua đất dự án Vạn Đạt H, Vạn Đạt C thì Công ty X1 được nhận hoa hồng là 15% trên tổng giá trị hợp đồng.
Đối với các sơ đồ phân lô của dự án Vạn Đạt H và Vạn Đạt C, kèm bảng giá do Công ty X cung cấp. Lưu Hùng D4 nhận bản vẽ sơ đồ dự án từ Đặng Minh Anh D3, sau đó Lưu Hùng D4 thuê in lại để thông tin đơn vị phân phối là Công ty X1, để giới thiệu cho khách hàng.
Theo đó, Công ty X1 đã thông báo mở sự kiện chào bán, thực hiện tư vấn các lô đất của dự án và tổ chức đưa khách hàng đến xem đất tại các dự án của Công ty X. Do là đơn vị phân phối độc quyền nên tất cả hợp đồng khách hàng ký kết với Công ty X để mua đất thuộc 2 dự án trên, Công ty X1 đều được hưởng hoa hồng, tổng số tiền đã nhận là 5.189.976.496 đồng. Việc nhận tiền hoa hồng do D4 trực tiếp đến Công ty X, nhận tiền mặt từ kế toán Công ty X, có sự tham gia của Nguyễn Thị Hương G hoặc Đặng Minh Anh D3. G biết về việc chi trả hoa hồng cho Công ty X1. Phiếu chi có chữ ký của G với vai trò là thủ quỹ, kế toán trưởng.
Quá trình giao dịch, khách hàng ký hợp đồng mua bán với Công ty X, do Đặng Minh Anh D3 đại diện ký. Khách hàng có tiến hành đóng tiền cọc cho Công ty X1, được xuất phiếu thu, tuy nhiên, sau đó Công ty X1 đã thu lại phiếu thu và cung cấp phiếu thu của Công ty X. Số tiền mua bán đất còn lại khách hàng nộp trực tiếp cho Công ty X.
Theo đó, Đặng Minh Anh D3 đã đại diện Công ty X trực tiếp ký kết với khách hàng Hợp đồng thỏa thuận mua bán, nội dung về việc mua bán và ra chủ quyền sử dụng các lô đất thuộc Dự án Vạn Đạt H và Vạn Đạt C, mục đích sử dụng: đất ở tại đô thị; phương thức thanh toán: thanh toán bằng tiền mặt tại trụ sở công ty hoặc chuyển khoản vào các tài khoản của Công ty X gồm: tài khoản số 13010001906135, mở tại Ngân hàng B Sở Giao dịch 2, và số 060186221111, mở tại Ngân hàng S Chi nhánh B1.
Thực hiện theo hợp đồng, khách hàng đã nộp tiền cho Công ty nhiều đợt, bằng cách chuyển tiền vào tài khoản của Công ty X. Tuy nhiên, quá thời hạn giao đất nhưng phía Công ty X không hoàn tất việc bàn giao đất và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo nghĩa vụ đã cam kết. Khách hàng liên lạc với Đặng Minh Anh D3 để yêu cầu làm thanh lý và bồi thường hợp đồng, Công ty chỉ tiến hành lập biên bản thanh lý nhưng không thanh toán tiền như thỏa thuận. Số tiền do khách hàng chuyển tiền vào tài khoản, Nguyễn Thị Hương G sử dụng để thanh toán tiền mua xe, rút tiền mặt, chiếm đoạt cho cá nhân và đồng phạm.
Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố H đã tiếp nhận 35 đơn tố giác khách hàng, về việc ký kết 46 hợp đồng của cả hai dự án Vạn Đạt H và Vạn Đạt C của Công ty X, bị chiếm đoạt số tiền 20.729.944.806 đồng. Cụ thể: Ông Trần Thanh T2; Ông Lương Chí T3; ông Đặng Thanh D5; ông Chu Văn Đ3; ông Đặng Chí C1; bà Nguyễn Ngọc Hải L1; bà Vương Thị T4; ông Trần Hữu T5; bà Bạch Hồ Huyền T6; ông Nguyễn Minh T7; ông Nguyễn Công C2; bà Nguyễn Thị Mỹ T8; bà Lê Thị H1; bà Triệu Thị Bích D6; ông Nguyễn Văn C3; bà Hồ Thị Thu H2; ông Phạm Xuân C4; ông Võ Minh T9; bà Đặng Thị Mỹ D7; ông Lê Mạnh C5; bà Trần Thu Đ4; ông Lê Trọng H3; bàTrần Quỳnh Sa; ông Nguyễn Đình D8; bà Nguyễn Xuân D9; ông Phạm Thanh L2; ông Lưu Quang T10; bà Lâm Thị Ú; bà Nguyễn Thị Mai V; bà Trương Thị Ngọc M2; ông Nguyễn Thiện C6; ông Vương Văn N2; bà Đào Thị K; ông Trịnh Đình T11 và bà Phạm Thị H4; ông Võ Văn V1.
Tất cả Hợp đồng thỏa thuận mua bán của Vạn Đạt C và Vạn Đạt H đều do Đặng Minh Anh D3 đại diện Công ty X ký với khách hàng; Phiếu thu do Nguyễn Thị Hương G và Đặng Minh Anh D3 ký nhận tiền. Trong đó, một số hợp đồng ký trước thời điểm đặt cọc mua đất gồm:
Đến đầu năm 2019, sau khi Công ty X không thực hiện theo cam kết với khách hàng, D5 đã ngưng các hoạt động giới thiệu khách hàng liên quan dự án công ty X. Công ty X1 đã phối hợp cùng với khách hàng đến làm việc với Công ty X, đồng thời thỏa thuận mua lại đất, trả tiền lại được cho một số khách hàng, tổng số tiền đã trả là 2.191.459.846 đồng, số tiền còn lại 2.998.516.650 đồng, D5 sử dụng để chi tiêu cho cá nhân và hoạt động công ty.
Kết quả xác minh các dự án do Công ty X lập ra, chào bán:
- Dự án Vạn Đạt H, theo hợp đồng nằm tại vị trí thửa đất số 521 thuộc tờ bản đồ số 30, tại xã T, huyện H, TP .:
+ Xác minh tại Văn phòng đăng ký đất đai, Sở T12, kết quả: không có thông tin về việc đăng ký lập dự án liên quan thửa đất số 521, tờ bản đồ số 30, xã T, huyện H và Công ty X.
+ Kết quả xác minh tại Văn phòng đăng ký đất đai huyện H như sau: thửa đất số 521, tờ bản đồ số 30, xã T, huyện H thuộc quyền sở hữu của ông Trương Tuấn A và bà Nguyễn Thị Minh N1, địa chỉ số D đường H, Phường D, quận T, do nhận chuyển nhượng ngày 23/09/2016, tiếp tục sử dụng đất đến ngày 24/09/2068. Hiện thửa đất trên nằm trong danh sách 1.392 hồ sơ tạm thời chưa giải quyết chuyển mục đích sử dụng đất.
+ Xác minh tại Ủy ban nhân dân huyện H cho biết: đến thời điểm hiện nay, chưa tiếp nhận hồ sơ tách thửa tại thửa đất số 521, tờ bản đồ số 30, xã T, huyện H, TP ..
- Dự án Vạn Đạt C, theo hợp đồng nằm tại vị trí: tờ bản đồ số 17, tọa lạc tại xã T, huyện C, TP ..
+ Xác minh tại Văn phòng Đ, Sở T12, kết quả: không có thông tin về việc đăng ký lập dự án liên quan các thửa đất thuộc tờ bản đồ số 17, xã T, huyện C, và Công ty Vạn Đạt.
+ Xác minh tại Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện C, kết quả được biết: Tại tờ bản đồ số 17 thuộc xã T, huyện C, TP . không có dự án Vạn Đạt C và thông tin liên quan Công ty X. Đối với Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất số 759 QSDĐ/CQ và số 760 QSDĐ/CQ do Ủy ban nhân dân huyện C cấp ngày 30/11/2004, theo dữ liệu cập nhật hiện nay đều do bà Đỗ Thị Tuyết L, địa chỉ 9.05 lô H3 chung cư H, Phường F, Quận D, TP ., làm chủ sở hữu.
+ Xác minh tại Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh, được biết: Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh có thụ lý đơn khởi kiện của bà L yêu cầu tòa án giải quyết hủy hợp đồng đặt cọc giữa bà L và Đặng Minh Anh D3 về việc mua các thửa đất nêu trên. Tuy nhiên, ngày 01/10/2021, Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh cho biết đã chuyển hồ sơ về việc “Tranh chấp hợp đồng đặt cọc chuyển nhượng quyền sử dụng đất” nêu trên đến Tòa án nhân dân huyện Củ Chi để giải quyết theo thẩm quyền. Cơ quan điều tra đã có văn bản gửi đến Tòa án nhân dân huyện Củ Chi, nhưng đến nay chưa có kết quả.
Tại bản án hình sự sơ thẩm số 64/2023/HS-ST ngày 01 tháng 3 năm 2023 Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:
Căn cứ điểm a khoản 4 Điều 174; điểm s, b khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 17; Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 Xử phạt bị cáo Lâm Uy M: 16 (Mười sáu) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày 14/10/2022 Căn cứ điểm a khoản 4 Điều 174; điểm s, b, n khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 17; Điều 58; Điều 54 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Hương G: 10 (M3) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án Căn cứ điểm a khoản 4 Điều 174; điểm s, t,b khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 17; Điều 58; Điều 54 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 Xử phạt bị cáo Đặng Minh Anh D3: 09 (C7) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày 06/10/2021 Căn cứ điểm a khoản 4 Điều 174, điểm s, t,b khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 17; Điều 58; Điều 54Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 Xử phạt bị cáo Lưu Hùng D4: 09 (C7) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày 23/8/2022 Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về biện pháp tư pháp, xử lý vật chứng, án phí, quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.
Sau khi xét xử sơ thẩm, trong các ngày 03/3/2023 và 13/3/2023 các bị cáo Nguyễn Thị Hương G, Đặng Minh Anh D3, Lưu Hùng D4, Lâm Uy M kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu kháng cáo, giảm cho các bị cáo một phần hình phạt.
Trong phần tranh luận:
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm giải quyết vụ án:
Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội theo bản án sơ thẩm. Trong vụ án này bị cáo M là chủ mưu, các bị cáo G là người giúp sức đồng thời là người trực tiếp sử dụng tiền chiếm đoạt bị hại, bị cáo D3 và bị cáo D4 là người giúp sức cho bị cáo M chiếm đoạt tài sản. Bản án sơ thẩm đã áp dụng đầy đủ các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ cho các bị cáo, áp dụng Điều 54 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 để xử bị cáo G, D4, D3 mức án dưới khung hình phạt, nên hình phạt là có căn cứ.
Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm, bị cáo G có xuất trình tài liệu thể hiện chú bị cáo là liệt sỹ, bị cáo và bị cáo M có nộp thêm 100 triệu đồng sau khi xét xử sơ thẩm, những tình tiết giảm nhẹ này đã được Tòa án cấp sơ thẩm nhận định và áp dụng. Đối với bị cáo D4 tại phiên tòa phúc thẩm có xuất trình tài liệu chứng minh gia đình bị cáo đã trả tiền cho bị hại V1, bản án sơ thẩm buộc các bị cáo liên đới bồi thường cho bị hại, nên đề nghị Hội đồng xét xử ghi nhận và khấu trừ trong giai đoạn thi hành án. Từ đó, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Người bào chữa cho các bị cáo Nguyễn Thị Hương G, Lâm Uy M phát biểu: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét các tình tiết giảm nhẹ để giảm nhẹ hình phạt cho 02 bị cáo như sau:
- Đối với bị cáo G: Đánh giá toàn diện vụ án thì bản thân bị cáo chỉ là hình thức giúp cho bị cáo M, ý thức trình độ học vấn của bị cáo rất hạn chế chỉ 5/12 nên bị cáo không nhận thức được hành vi của bị cáo là vi phạm pháp luật. Bản thân bị cáo có 02 con nhỏ, con nhỏ nhất mới 3 tuổi. Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 09/8/2023 bị cáo đã khắc phục 100.000.000 đồng tại Cục thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh. Bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn, cha bị cáo mới mất, hiện tại bị cáo đang mang thai, chú ruột bị cáo là liệt sỹ.
- Đối với bị cáo M: Do chính sách Nhà nước thay đổi mà bị cáo không kịp cập nhật nên dẫn đến hành vi phạm tội, bị cáo có 05 người con, đã cùng với bị cáo G khắc phục thêm 100.000.000 đồng sau khi xét xử sơ thẩm. Bị cáo có các tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho 02 bị cáo, để các bị cáo có cơ hội sơm khắc phục số tiền chiếm đoạt cho các bị hại.
Người bào chữa cho các bị cáo Lưu Hùng D4 phát biểu: Bị cáo D4 phạm tội do tin tưởng bị cáo M, D3 hứa hẹn môi giới, cung cấp hồ sơ pháp lý dự án nên bị cáo D4 mới nhận phân phối. Trong quá trình thực hiện khi phát hiện ra vụ việc, bị cáo đã dừng việc làm lại, cùng với bị hại liên hệ các bị cáo M, D3 để trả tiền lại cho bị hại. Xin Hội đồng xét xử xem xét hành vi phạm tội của bị cáo D4 có thể là chấm dứt nửa chừng. Tại phiên tòa phúc thẩm, gia đình bị cáo đã khắc phục toàn bộ số tiền cho bị hại Võ Văn V1.
Bản thân bị cáo là lao động chính, cha đã mất, mẹ bị cáo đã 70 tuổi, đang bị bệnh tim. Đối với xác nhận của bị hại V1 về việc xác nhận đã nhận số tiền bồi thường, đây là tình tiết mới để xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, xin xem xét cho bị cáo được hưởng bị cáo mức án thấp nhất để bị cáo sớm có cơ hội trở về khắc phục hậu quả cho bị hại.
Người bào chữa cho các bị cáo Đặng Minh Anh D3 phát biểu: Vai trò của bị cáo D3 trong vụ án là hạn chế, không đáng kể, bị cáo không phải là chủ mưu, không chiếm đoạt sử dụng tiền của bị hại, bị cáo làm việc chưa được nhận thù lao chỉ được hứa hẹn là được chia khi dự án hoàn thành, hậu quả của vụ án hiện nay đã được các bị cáo khắc phục phần lớn. Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm chưa xem xét cá thể hóa từng hành vi phạm tội của các bị cáo, bị cáo đã ăn năn hối cải, là lao động chính trong gia đình, hoàn cảnh gia đình khó khăn, cha bị cáo có nhiều đóng góp cho xã hội được tặng thưởng nhiều huân chương huy chương. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo D3.
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác,
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Công ty Trách nhiệm hữu hạn X (gọi tắt là Công ty X) do Nguyễn Thị Hương G là Giám đốc và là người đại diện theo pháp luật, Đặng Minh Anh D3 là Phó Giám đốc Công ty với ngành nghề kinh doanh là: Tư vấn, môi giới, đấu giá bất động sản, đấu giá quyền sử dụng đất. Từ tháng 3/2018 đến tháng 11/2018, mặc dù Công ty X không phải là chủ sở hữu đối với các thửa đất thuộc tờ bản đồ số 17 tại xã T, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh và thửa đất số 521 thuộc tờ bản đồ số 30, tại xã T, huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh nhưng đã lập khống 02 dự án Khu dân cư V và Vạn đạt H rồi liên kết với Công ty X1 do Lưu Hùng D4 là người đại diện theo pháp luật thực hiện việc tiếp thị, quảng cáo và rao bán các nền đất, sau đó ký các hợp đồng thỏa thuận mua bán, chuyển quyền sử dụng đất và thu tiền của 35 cá nhân, ký kết 46 hợp đồng, chiếm đoạt 20.729.944.806 đồng về cho Công ty X và Hương G là người đã sử dụng toàn bộ số tiền này vào mục đích cá nhân, trong đó tại quá trình điều tra có trả lại cho một số khách hàng số tiền 2.805.760.000 đồng. Ngoài ra, trong quá trình xét xử, bị cáo G nhờ người quen liên hệ trả thêm cho 18 bị hại số tiền 8.028.441.556 đồng, Lưu Hùng D4 quá trình điều tra đã trả lại cho các bị hại số tiền 2.191.459.846 đồng, trong quá trình xét xử, bị cáo D4 đã trả thêm cho bị hại Nguyễn Ngọc Hải L1 số tiền 267.036.000 đồng.
Nguyễn Thị Hương G tuy là người đứng tên đại diện theo pháp luật cho Công ty X nhưng theo sự thừa nhận của các thành viên công ty cũng như sự thừa nhận của Lâm Uy M (chồng bị cáo) thì G chỉ là người thực hiện hoạt động của Công ty theo sự chỉ đạo của Lâm Uy M. Tiền chiếm đoạt của khách hàng trên 20 tỷ đồng đều được chuyển vào tài khoản của Công ty X do Hương G đứng tên tài khoản, xử lý thu chi tài khoản này ra sao, G đều thực hiện theo chỉ đạo của M. Đặng Minh Anh D3 là Phó Giám đốc Công ty X, được ủy quyền thay mặt công ty ký các hợp đồng mua bán với khách hàng. Tuy D3 không chiếm đoạt tiền của khách hàng nhưng cũng là người giúp sức cho Lâm Uy M và Nguyễn Thị Hương G thực hiện thành công việc chiếm đoạt tiền của khách. Lưu Hùng D4 là Giám đốc Công ty X1, thực hiện quảng cáo rao bán các nền đất thuộc hai dự án Vạn Đạt H và Vạn Đạt C khi hai dự án này không hề đầy đủ pháp lý hợp pháp - giúp Công ty X, cụ thể là Lâm Uy M và Nguyễn Thị Hương G chiếm đoạt thành công của 35 khách hàng với tổng số tiền chiếm đoạt tên 20 tỷ đồng – và Lưu Hùng D4 được hưởng lợi tiền hoa hồng 15% với số tiền 5.189.976.496 đồng; Sau khi biết hai dự án này là không có thật, D4 đã chủ động liên hệ một số khách hàng để khắc phục hậu quả số tiền là 2.458.495.846 đồng, còn lại 2.731.480.650 đồng D4 chưa khắc phục được.
Với hành vi như đã nêu trên, Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên bố các bị cáo Nguyễn Thị Hương G, Đặng Minh Anh D3, Lưu Hùng D4, Lâm Uy M phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo Khoản 4 Điều 174 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 là đúng người, đúng tội.
[2] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của các bị cáo:
[2.1] Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cao cho xã hội, đã xâm hại đến quyền tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ. Các bị cáo nhận thức rõ hành vi phạm tội của mình sẽ bị pháp luật trừng phạt nghiêm khắc, nhưng vẫn cố ý phạm tội nên cần có hình phạt nghiêm khắc để giáo dục răn đe và phòng ngừa tội phạm. Các bị cáo thực hiện hành vi phạm tội nhiều lần là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm g (phạm tội 02 lần trở lên) khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo đều có nhân thân tốt; Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đây là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự; Bị cáo Nguyễn Thị Hương G phạm tội khi đang mang thai, các bị cáo G và bị cáo M đã nộp lại một phần tiền và khắc phục hậu quả cho 18 bị hại; Bị cáo Lưu Hùng D4 đã khắc phục cho một số bị hại và nộp tiền khắc phục hậu quả nên cần áp dụng thêm điểm b, n khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo G và điểm b khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Lưu Hùng D4 và Lâm Uy M; Các bị cáo Đặng Minh Anh D3, Lưu Hùng D4 còn được áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm t khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự do tích cực hợp tác với cơ quan điều tra giúp làm rõ hành vi và khởi tố đối với bị cáo Lâm Uy M. Từ đó, mức án mà Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên xử đối với các bị cáo là có căn cứ.
[2.2] Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và cung cấp các tài liệu, chứng cứ mới sau: Tài liệu thể hiện bị cáo Nguyễn Thị Hương G có chú ruột là liệt sỹ Nguyễn Văn H5; Biên lai thu tiền số AA/2022/0001896 ngày 09/8/2023 của Cục thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh thể hiện bị cáo Nguyễn Thị Hương G và Lâm Uy M đã nộp số tiền khắc phục hậu quả 100.000.000 đồng; Văn bản cam kết của ông Võ Văn V1 (bị hại trong vụ án) có nội dung gia đình bị cáo Lưu Hùng D4 đã trả toàn bộ số tiền bị hại V1 bị chiếm đoạt là 469.380.760 đồng; Tài liệu thể hiện bị cáo Nguyễn Thị Hương G hiện đang mang thai theo kết quả siêu âm ngày 02/5/2023 của Bệnh viện P.
[2.3] Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định: Đây là vụ án có tính chất đồng phạm, nên xét tính chất, vai trò, mức độ tham gia thực hiện hành vi phạm tội của các bị cáo như sau:
- Bị cáo Lâm Uy M và Nguyễn Thị Hương G là đồng chủ mưu, trong đó Lâm Uy M là người chỉ đạo, nên phải chịu trách nhiệm hình sự đối với số tiền chiếm đoạt là 20.729.944.806 đồng. Trong quá trình giải quyết vụ án, bị cáo cũng đã nộp một phần tiền và khắc phục hậu quả cho 18 bị hại, được Tòa án cấp sơ thẩm đã có áp dụng điểm b khoản 1 Điều 51 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Mặc dù số tiền 100.000.000 đồng mà bị cáo cùng với bị cáo G đã nộp sau khi xét xử sơ thẩm, chỉ là một phần so với trách nhiệm dân sự mà Tòa án cấp sơ thẩm buộc các bị cáo phải thực hiện, nhưng việc tiếp tục nộp tiền thể hiện ý thức chấp hành pháp luật, mong muốn khắc phục hậu quả của bị cáo. Do vậy, để khuyến khích việc tích cực khắc phục hậu quả của bị cáo đối với các bị hại, cũng như thể hiện tính nhân đạo khoan hồng của pháp luật, Hội đồng xét xử ghi nhận đây là tình tiết giảm nhẹ mới sau khi xét xử sơ thẩm để giảm cho bị cáo một phần hình phạt.
- Bị cáo G là người đại diện theo pháp luật của công ty X, số tiền các bị hại chuyển vào tài khoản công ty X là do bị cáo đứng tên. Theo sự thừa nhận của tất cả các bị cáo, thì việc sử dụng số tiền chiếm đoạt này đều thực hiện theo sự chỉ đạo của bị cáo M. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo G có nhiều tình tiết giảm nhẹ mới như cùng với bị cáo M nộp khắc phục thêm số tiền 100.000.000 đồng, bị cáo có chú ruột là liệt sỹ; Ngoài ra, về hoàn cảnh gia đình bị cáo có 02 con nhỏ, con nhỏ nhất sinh năm 2020, bản thân bị cáo hiện đang mang thai. Do vậy, nhằm tạo điều kiện cho bị cáo trong việc chăm sóc, nuôi dưỡng các con (do bị cáo và bị cáo M là vợ chồng và bị cáo M đang bị tạm giam), cũng như xét mức độ vai trò tham gia của bị cáo trong vụ án, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo.
- Bị cáo D3 là người đại diện theo ủy quyền của công ty X để ký các hợp đồng mua bán với khách hàng. Xét, các bị cáo được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ và tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự như nhau, nhưng phân hóa đồng phạm về vai trò, mức độ tham gia thì bị cáo D3 là người giúp sức, không có chiếm đoạt tiền, bị cáo là cấp dưới của bị cáo G, theo sự chỉ đạo của bị cáo M. Mặc dù tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo không có tình tiết giảm nhẹ mới nhưng để đảm bảo tính công bằng thì hình phạt của bị cáo phải thấp hơn 02 bị cáo còn lại thuộc công ty X. Vì vậy, yêu cầu kháng cáo của bị cáo về việc xin giảm nhẹ hình phạt là có cơ sở được chấp nhận.
- Đối với bị cáo D4: Bị cáo là đại diện theo pháp luật của công ty X1, thực hiện việc tiếp thị quảng cáo và rao bán nền đất, sau đó ký các hợp đồng thỏa thuận mua bán, chuyển quyền sử dụng đất, thu tiền và hưởng hoa hồng. Bị cáo phạm tội với vai trò hợp tác cùng có lợi. Trong quá trình giải quyết vụ án, bị cáo đã tích cực khắc phục hậu quả và tích cực hợp tác với cơ quan điều tra để làm rõ hành vi phạm tội. Sau khi xét xử sơ thẩm, gia đình bị cáo tiếp tục khắc phục toàn bộ hậu quả cho bị hại Võ Văn V1. Tương tự như nhận định đối với bị cáo M, Hội đồng xét xử ghi nhận đây là tình tiết giảm nhẹ mới để giảm hình phạt cho bị cáo.
[3] Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử không chấp nhận quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa; Chấp nhận yêu cầu kháng cáo của các bị cáo; Sửa bản án sơ thẩm về phần hình phạt do phát sinh tình tiết giảm nhẹ mới tại cấp phúc thẩm, nên Tòa án cấp sơ thẩm không có lỗi.
[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[5] Án phí hình sự phúc thẩm: Do kháng cáo được chấp nhận nên các bị cáo không phải chịu.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Chấp nhận yêu cầu kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Thị Hương G, Lâm Uy M, Đặng Minh Anh D3, Lưu Hùng D4;
Sửa bản án hình sự sơ thẩm số 64/2023/HS-ST ngày 01/3/2023 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh về phần hình phạt đối với các bị cáo.
1. Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Thị Hương G, Lâm Uy M, Đặng Minh Anh D3, Lưu Hùng D4 phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.
Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; điểm s, b khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 17; Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 Xử phạt bị cáo Lâm Uy M 14 (Mười bốn) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 14/10/2022 Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; điểm s, b, n khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 17; Điều 58; Điều 54 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Hương G 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; điểm s, t, b khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 17; Điều 58; Điều 54 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 Xử phạt bị cáo Đặng Minh Anh D3 07 (bảy) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 06/10/2021 Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174, điểm s, t, b khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 17; Điều 58; Điều 54 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 Xử phạt bị cáo Lưu Hùng D4 07 (bảy) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 23/8/2022.
Tiếp tục tạm giam các bị cáo Lâm Uy M, Đặng Minh Anh D3, Lưu Hùng D4 45 ngày để đảm bảo thi hành án.
2. Số tiền 100.000.000 đồng (Một trăm triệu đồng) mà bị cáo Nguyễn Thị Hương G đã nộp theo biên lai thu số AA/2022/0001896 ngày 09/8/2023 của Cục thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh; Và số tiền 469.380.760 đồng (Bốn trăm sáu mươi chín triệu, ba trăm tám mươi nghìn, bảy trăm sáu mươi đồng) mà gia đình bị cáo Lưu Hùng D4 đã khắc phục cho bị hại Võ Văn V1 theo Văn bản cam kết ngày 16/8/2023, được chứng thực tại Văn phòng công chứng Bửu Hòa tỉnh Đ sẽ được xem xét đối trừ phần trách nhiệm dân sự cho các bị cáo trong giai đoạn thi hành án.
3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
4. Án phí hình sự phúc thẩm: Các bị cáo không phải chịu. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 547/2023/HS-PT về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Số hiệu: | 547/2023/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 16/08/2023 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về