Bản án 547/2020/HS-ST ngày 30/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TN, TỈNH TN 

BẢN ÁN 547/2020/HS-ST NGÀY 30/11/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 30 tháng 11 năm 2020 tại Hội trường Tòa án nhân dân thành phố TN xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 548/2020/TLST-HS ngày 04 tháng 11 năm 2020 theo Quyết đ ịnh đưa vụ án ra xét xử số 569/2020/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 11 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Dƣơng Trƣng L; sinh ngày 21 tháng 4 năm 1974 Nơi ĐKHKTT: Tổ 9, phường T.L, thành phố TN, tỉnh TN. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo : Không. Nghề nghiệp: Không. Trình độ học vấn:

12/12. Con ông Dương Quốc T, sinh năm 1949, con bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1953. Gia đình có 04 anh em, bị cáo là con thứ nhất. Có vợ Đỗ Thị Th, sinh năm 1971, có 01 con, sinh năm 1994.

- Tiền án, tiền sự: Không.

- Nhân thân: 07 + Tại Bản án số 95/HSST ngày 15/5/1998, Tòa án nhân dân thành phố TN, tỉnh TN xử phạt 15 tháng tù cho hưởng án treo, thời g ian thử thách 36 tháng về tội “Trộm cắp tài sản của công dân”.

+ Tại Bản án số 78/2010/HSST ngày 29/6/2010, Tòa án nhân dân huyện P.L, tỉnh TN xử phạt 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Ra trại ngày 06/7/2011.

+ Ngày 16/4/1997, Công an thành phố TN xử phạt hành chính 50.000 đồng về hành vi “Dùng chất ma túy”.

+ Tại Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 16/QĐ/XPVPHC ngày 03/4/2000, Công an phường T.L, thành phố TN xử phạt cảnh cáo về hành vi “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản của công dân” và “Dùng chất ma túy”.

+ Tại Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 17/QĐ/XPVPHC ngày 03/4/2000, Công an phường T.L, thành phố TN xử phạt cảnh cáo về hành vi “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản của công dân”.

+ Tại Quyết định số 1964/QĐ-UB ngày 08/7/2000, Ủy ban nhân dân tỉnh TN áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở giáo dục thời gian 24 tháng. Chấp hành xong ngày 10/9/2002.

+ Tại Quyết định số 728/QĐ-UB ngày 29/5/2008, Ủy ban nhân dân huyện P.L, tỉnh TN đưa người nghiện ma túy vào chữa bệnh bắt buộc tại Trung tâm Chữa bệnh Giáo dục LĐXH huyện P.L thời gian 18 tháng. Chấp hành xong ngày 09/10/2009.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 03/8/2020 đến nay. (Có mặt tại phiên tòa) - Người làm chứng: Anh nguyễn Đức H, sinh năm 1974, trú tại xóm tổ 8, phường T.Đ, thành phố TN. (Vắng mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 21 giờ 00 phút ngày 03/8/2020, tổ công tác của Công an phường T.Đ, thành phố TN làm nhiệm vụ tại khu vực tổ 09 của phường phát hiện một người đàn ông có biểu hiện nghi vấn liên quan đến ma túy. Tổ công tác yêu cầu kiểm tra, người đàn ông khai tên là Dương Trường L và tự giác giao nộp từ trong túi quần bên trái đang mặc cho tổ công tác 01 gói nilon bên trong chứa 01 viên nén màu H và chất tinh thể màu trắng. L khai là hồng phiến và ma túy đá mua để sử dụng cho bản thân. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Dương Trường L và thu giữ, niêm phong vật chứng theo quy định.

Cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố TN đã tiến hành cân xác định khối lượng số viên nén màu hồng có khối lượng 0,088 gam, cho vào bì niêm phong ký hiệu H gửi giám định; số chất tinh thể màu trắng có khối lượng 0,099 gam, cho vào bì niêm phong ký hiệu T gửi giám định.

Tại bản Kết luận giám định số 1026/KL-KTHS ngày 12/8/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh TN kết luận: Mẫu viên nén màu hồng trong phong bì ký hiệu H gửi giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng là 0,088 gam. Mẫu chất tinh thể màu trắng trong phong bì ký hiệu T gửi giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng là 0,099 gam.

Tại Cơ quan điều tra Dương Trường L khai nhận: Do bản thân nghiện ma túy, khoảng 20 giờ 00 phút ngày 03/8/2020, L đi xe ôm từ nhà đến khu vực Ga Đồng Quang thuộc phường Quang Trung, thành phố TN để tìm mua ma túy sử dụng cho bản thân. Đến nơi L xuống xe gặp và mua của một người đàn ông không quen biết 01 viên ma túy H phiến và 01 gói ma túy đá gói bằng nilon màu trắng với giá 200.000 đồng. Mua xong, L cất ma túy vào túi quần bên trái và đi tìm nơi sử dụng nhưng chưa kịp sử dụng thì bị tổ công tác của Công an phường T.Đ phát hiện, kiểm tra, lập biên bản bắt người phạm tộ i quả tang và thu giữ vật chứng.

Lời khai nhận của Dương Trường L phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người chứng kiến, vật chứng thu giữ, kết luận giám định và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án.

Vật chứng của vụ án gồm: 01 bì niêm phong ký hiệu H bên trong chứa ma túy và vỏ bao mẫu hoàn lại sau giám định; 01 bì niêm phong ký hiệu T bên trong chứa ma túy và vỏ bao mẫu hoàn lại sau giám định. Hiện đang được bảo quản tại kho vật chứng của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố TN chờ xử lý.

Tại bản Cáo trạng số 534/CT-VKSTPTN ngày 30 tháng 10 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân thành phố TN đã truy tố bị cáo Dương Trường L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c, khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo khai nhận hành vi phạm tộ i của mình như như nội dung bản cáo trạng truy tố.

Trong phần luận tội, tại phiên tòa Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố TN tóm tắt nội dung vụ án, phân tích các căn cứ quy kết bị cáo Dương Trường L về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy; đánh giá nhân thân; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Từ đó đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Dương Trường L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự; Điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào; áp dụng Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt Dương Trường L từ 24 đến 30 tháng tù giam, không phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về vật chứng của vụ án: Căn cứ điều 47 Bộ luật hình sự vµ Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu tiêu hủy 01 bì niêm phong ký hiệu H và 01 bì niêm phong ký hiệu T. Tình tạng vật chứng như biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản số 59 ngày 30/10/2020 Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo không tranh luận, thừa nhận việc truy tố và xét xử bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” là không oan, đúng người, đúng tội, bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Phần lời nói sau cùng bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt để bị cáo sớm được trở về với gia đình và xã hội

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, các quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố TN, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố TN, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo, không có ý kiến hoặc kiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó các Quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng là hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản cáo trạng truy tố. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan Điều tra, biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định và vật chứng thu giữ. Hội đồng xử có đủ căn cứ kết luận: Hồi 21 giờ 00 phút ngày 03/8/2020, tại tổ 09, phường T.Đ, thành phố TN, tỉnh TN, Dương Trường L đang tàng trữ 0,187gam Methamphetamine để sử dụng cho bản thân thì bị tô công tác Công an phường T.Đ, thành phố TN phát hiện, bắt quả tang, thu giữ vật chứng.

[3] Đánh giá của Hội đồng xét xử: Bị cáo biết ma túy là vật cấm được Nhà quản lý nhưng vấn cố tình tàng trữ 0,187gam Methamphetamine để sử dụng cho bản thân. Do vậy hành vi của bị cáo đã đủ căn cứ truy cứu trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm c, khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Viện kiểm sát thành phố TN truy tố bị cáo về tội danh và điều luật nêu trên là hoàn toàn có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.

Nội dung điều 249 quy định:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

………….

c)…Methamphetamine,...có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam”.

[4] Xét tính chất mức độ của vụ án là nghiêm trọng, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm các quy định của Nhà nước về quản lý, sử dụng chất gây nghiện, gây mất trật tự trị an ở địa phương.

[5] Xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo thấy: Dương Trường L chưa có tiền án tiền sự, có nhân thân xấu như: Bị cáo có 02 bản án về tội trộm cắp tài sản, có 01 Quyết định xử phạt hành chính về hành vi "Dùng chất ma túy"; có 02 Quyết định xử phạt hành chính về hành vi "Lạm dụng tín nhiệm chiến đoạt tài sản công dân"; có 01 Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc; có 01 Quyết định đưa người nghiện ma túy vào chữa bệnh bắt buộc. Bị cáo không lấy đó làm bài học, tiếp tục phạm tội. Tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng một tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình; bị cáo không phải phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Xét thấy, bị cáo là người nghiện ma túy, không chịu cai nghiện, tu dưỡng rèn luyện bản thân, nên cần phải có một mức án tương xứng với hành vi phạm tội để bị cáo thấy được sự nghiêm minh của pháp luật, để bị cáo có ý thức chấp hành pháp luật, rèn luyện bản thân cải tạo trở thành người tốt.

Mức hình phạt của Đại diện Viện kiểm sát là phù hợp. Hội đồng xét xử cân nhắc các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để lên một mức án phù hợp với hành vi bị cáo đã gây ra.

[6] Vật chứng của vụ án: 02 bì niêm phong ký hiệu H,T là vật cấm và không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

[7] Về hình phạt bổ sung và án phí - Hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt tù lẽ ra Hội đồng xét xử áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền, nhưng theo biên bản xác minh, bị cáo là người nghiện ma túy, không có tài sản riêng, nên Hội đồng xét xử không phạt bổ sung đối với bị cáo.

- Án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm vào ngân sách nhà nước. Về nguồn gốc số ma túy bị thu giữ, Dương Trường L khai mua của một người đàn ông không rõ lai lịch, địa chỉ tại khu vực Ga Đ.Q thuộc phường Q.Tr, thành phố TN nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố TN không có cơ sở điều tra làm rõ xử lý.

Bởi các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Dương Trường L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự;

1. Xử phạt: Bị cáo Dương Trường L 24 (Hai mươi bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 03/8/2020. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo;

Căn cứ Điều 329 Bộ luật Tố tụng hình sự Quyết định tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

2. Vật chứng của vụ án: Căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự và Đ iều 47 Bộ luật hình sự.

- Tịch thu, tiêu hủy 01 bì niêm phong có ký hiệụ H, T bên trong chứa ma túy và vỏ bao mẫu hoàn lại sau giám định, mặt sau bì có 02 dấu tròn của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh TN và các chữ ký của Nguyễn Thành Tr và Ma Nhật A. Tình trạng vật chứng theo Biên bản giao nhận vật chứng số 59 ngày 30/10/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố TN.

3. Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Luật Phí và lệ phí; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm vào ngân sách Nhà Nước.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

821
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 547/2020/HS-ST ngày 30/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:547/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Nguyên - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;