Bản án 544/2017/HNGĐ-ST ngày 25/08/2017 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THỦY NGUYÊN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 544/2017/HNGĐ-ST NGÀY 25/08/20177 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 25 tháng 8 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 342/2017/TLST- HNGĐ ngày 16 tháng 5 năm 2017 về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 287/2017/QĐXXST-HNGĐ ngày 25 tháng 7 năm 2017 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Trần Thị G, sinh năm 1988; đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn Đ, xã D, huyện T, thành phố Hải Phòng; nơi ở hiện nay: Thôn A, xã L, huyện T, thành phố Hải Phòng; vắng mặt và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

Bị đơn: Anh Trần Văn G, sinh năm 1984; địa chỉ: Thôn Đ, xã D, huyện T, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện đề ngày 11 tháng 4 năm 2017 và các lời khai tại Tòa án, nguyên đơn là chị Trần Thị G trình bày:

1. Về hôn nhân:

Chị G và anh Trần Văn G kết hôn với nhau vào năm 2007 trên cơ sở tìm hiểu tự nguyện, có tổ chức lễ cưới theo phong tục địa phương và có đăng ký kết hôn ngày 15 tháng 11 năm 2007 tại Ủy ban nhân dân xã D, huyện T, thành phố Hải Phòng. Sau cưới chị về gia đình anh G sinh sống tại thôn Đ, xã D. Quá trình chung sống vợ chồng hòa thuận đến tháng 11 năm 2012 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do bất đồng quan điểm sống, không thống nhất trong việc làm kinh tế nên vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi mắng, xúc phạm nhau. Chị mang con về nhà bố mẹ đẻ ở tại thôn A, xã L, anh G không tìm gọi, vợ chồng sống ly thân từ đó cho đến nay và không còn quan tâm nhau. Mâu thuẫn vợ chồng đã được gia đình tham gia hòa giải nhiều lần nhưng tình cảm vợ chồng không được cải thiện mà ngày càng trầm trọng. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, hôn nhân không có hạnh phúc, mục đích của hôn nhân không đạt được nên chị đề nghị Tòa án giải quyết được ly hôn anh G.

2. Về con chung:

Chị G trình bày chị và anh G có một con chung tên là Trần Thị T sinh ngày 11 tháng 8 năm 2008. Chị trực tiếp nuôi con từ khi vợ chồng sống ly thân cho đến nay. Khi ly hôn chị đề nghị được tiếp tục nuôi con. Về cấp dưỡng nuôi con chung để chị và anh G tự thỏa thuận giao nhận cho nhau nên không đề nghị Tòa án giải quyết.

3. Về tài sản chung và vay nợ chung:

Chị G trình bày chị và anh G có tài sản chung và vay nợ chung, khi ly hôn để tự giải quyết với nhau nếu không được sẽ đề nghị Tòa án giải quyết sau.

Anh Trần Văn G là bị đơn trong vụ án, cho đến ngày mở phiên tòa lần thứ hai vẫn không có ý kiến về việc giải quyết vụ án.

Kiểm sát viên phát biểu ý kiến trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án thì Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã tuân theo đúng pháp luật tố tụng, nguyên đơn chấp hành đúng pháp luật, bị đơn không chấp hành đúng pháp luật. Về việc giải quyết vụ án đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Luật hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu xin ly hôn và nuôi con chung của nguyên đơn. Nguyên đơn phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, các quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Nguyên đơn là chị Trần Thị G vắng mặt tại phiên tòa có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt. Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai, bị đơn là anh Trần Văn G vắng mặt không có lý do. Căn cứ khoản 1 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn.

[2]. Về hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa chị G và anh G đã được xác lập là hợp pháp (Giấy chứng nhận kết hôn số 85 đăng ký ngày 15 tháng 11 năm 2007 tại Ủy ban nhân dân xã D, huyện T, thành phố Hải Phòng). Căn cứ vào lời khai của đương sự, tài liệu điều tra xác minh tại địa phương thể hiện quá trình chung sống vợ chồng có mâu thuẫn từ năm 2014. Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, không thống nhất trong việc làm kinh tế dẫn đến vợ chồng thường xuyên xảy ra va chạm. Mâu thuẫn vợ chồng đã được gia đình tham gia hòa giải song không có kết quả. Chị G bỏ về nhà bố mẹ đẻ ở tại xã L, vợ chồng sống ly thân từ đó cho đến nay và không còn quan tâm đến nhau. Anh G vẫn sinh sống tại địa phương và biết việc chị G xin ly hôn song không trình bày quan điểm của mình. Điều đó chứng tỏ hôn nhân đã lâm vào tình trạng trầm trọng, khả năng đoàn tụ không còn, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Nay chị G xin ly hôn, căn cứ vào Điều 51, Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình xử cho chị G được ly hôn anh G.

[3]. Về con chung: Chị G và anh G có một con chung tên là Trần Thị T sinh ngày 11 tháng 8 năm 2008. Việc giao con chung cho ai nuôi cần phải căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con và xem xét nguyện vọng của con chưa thành niên. Xét thấy, chị G trực tiếp nuôi con từ khi vợ chồng sống ly thân cho đến nay, việc nuôi con đã ổn định và đảm bảo tốt về mọi mặt, khi ly hôn chị G đề nghị được tiếp tục nuôi con, mặt khác con có nguyện vọng được ở với chị G, anh G không có ý kiến. Do vậy, cần giao con chung cho chị G trực tiếp nuôi là phù hợp với các điều 58, 81, 82 và 83 của Luật hôn nhân và gia đình.

[4]. Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị G đề nghị để chị và anh G tự thỏa thuận giao nhận với nhau, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[5]. Về tài sản chung: Chị G trình bày chị và anh G có tài sản chung và vay nợ chung, để tự giải quyết với nhau nếu không được sẽ đề nghị Tòa án giải quyết sau. Anh G chưa có ý kiến nên Hội đồng xét xử không giải quyết trong vụ án này.

[6]. Về án phí: Chị G phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, khoản 1 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 51, Điều 56, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội; Xử:

1. Về hôn nhân: Chị Trần Thị G được ly hôn anh Trần Văn G.

2. Về con chung: Giao cho chị Trần Thị G trực tiếp nuôi con chung tên là Trần Thị T sinh ngày 11 tháng 8 năm 2008 cho đến khi con đủ mười tám tuổi và có khả năng lao động, trừ trường hợp có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Trần Thị G phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn, được trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0000967 ngày 16 tháng 5 năm 2017 của Chi cục thi hành án dân sự huyện T, thành phố Hải Phòng. Chị Trần Thị G đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

4. Nguyên đơn và bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

5. Trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

174
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 544/2017/HNGĐ-ST ngày 25/08/2017 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:544/2017/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 25/08/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;