Bản án 54/2024/HS-PT về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 54/2024/HS-PT NGÀY 23/01/2024 VỀ TỘI TIÊU THỤ TÀI SẢN DO NGƯỜI KHÁC PHẠM TỘI MÀ CÓ

Ngày 23 tháng 01 năm 2024, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Lâm Đồng; Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 306/2023/TLPT-HS ngày 04 tháng 5 năm 2023 đối với bị cáo Ngôn Văn H và Hoàng Ngọc V; Do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 13/2023/HS-ST ngày 27 tháng 3 năm 2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng.

- Bị cáo có kháng cáo:

1. Họ và tên: Ngôn Văn H, sinh năm 1988 tại: Cao Bằng; nơi thường trú: Thôn Trung Tâm, xã Nam Dong, huyện Cư Jut, tỉnh Đăk Lăk; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ học vấn: 11/12; dân tộc: Tày; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Ngôn Văn H (đã chết) và bà Hà Thị T, sinh năm 1957; nhân thân:

- Bản án số 53/2009/HSPT ngày 12/5/2009 bị Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông xử phạt 02 năm tù giam về tội cố ý gây thương tích.

- Bản án số 41/2011/HSST ngày 22/9/2011 bị Tòa án nhân dân huyện Cư Jút, tỉnh Đăk Nông xử phạt 03 năm tù giam về giao cấu với trẻ em.

Bị cáo bị bắt từ ngày 17/01/2021, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Lâm Đồng. Không triệu tập.

2. Họ và tên: Hoàng Ngọc V, sinh năm 1985 tại: Quảng Trị; nơi ĐKNKTT: Xã C, huyện H, tỉnh Quảng Trị; nơi cư trú: Số 1143 Bình Quới, Phường 28, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 5/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Thiên chúa; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Hoàng Ngọc C (đã chết) và bà Trương Thị Đ, sinh năm 1952; vợ đã ly hôn: Nguyễn Thị Thu N (ly hôn năm 2015); vợ: Bùi Thị Thanh V, sinh năm 1977; con: 03 con sinh năm 2011, 2015 và 2018; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 01/01/2021 đến ngày 06/4/2021 được thay đổi biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Vắng mặt.

Người bào chữa cho bị cáo Hoàng Ngọc V: Luật sư Nguyễn Đình T và Luật sư Võ Phan Duy A – Công ty Luật TNHH S. Địa chỉ: Số 06 H, phường N, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh.

Xin xét xử vắng mặt.

Bị hại:

- Ông Nguyễn Văn D, sinh năm 1972; địa chỉ: Thôn Phú Hiệp 1, xã G, huyện L, tỉnh Lâm Đồng. Có đơn xin vắng mặt.

- Bà Đỗ Thị V, sinh năm 1987; địa chỉ: Thôn Labouye A, xã L, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng. Có đơn xin vắng mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Nguyễn Văn L, sinh năm 1985; nơi cư trú: Thôn Lập Lá, xã Lâm Sơn, huyện Ninh Sơn, tỉnh Ninh Thuận.

Vắng mặt.

Người tham gia tố tụng khác:

1.Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự của Uỷ ban nhân dân huyện Đ: Ông Đỗ Văn H, chức vụ: Phó phòng Tài chính -Kế hoạch. Có mặt

2.Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự của Uỷ ban nhân dân huyện D. Có văn bản xin vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trong thời gian từ đầu tháng 9/2020, Nguyễn Hữu H và Ngôn Văn H đã thực hiện các vụ trộm cắp lan trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng cụ thể:

Vụ thứ nhất: Ngày 07/9/2020, Nguyễn Hữu H cùng với Ngôn Văn H điều khiển xe máy từ thành phố Hồ Chí Minh lên huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng, khi đến xã L, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng phát hiện nhà ông Nguyễn Thạch Vũ ở thôn Labouye A, xã L, huyện Đ có vườn lan dựng khung sắt, bên trên có lưới đen. Khi phát hiện vườn hoa lan trên, Nguyễn Hữu H và Ngôn Văn H bàn với nhau trộm lan trong vườn bán lấy tiền tiêu xài. Nguyễn Hữu H và Ngôn Văn H thuê một nhà nghỉ tại thị trấn Thạnh Mỹ, huyện Đ để nghỉ. Đến khoảng 02- 03h ngày 08/9/2020, Ngôn Văn H và Nguyễn Hữu H điều khiển xe đến vườn lan nhà ông Vũ; Ngôn Văn H dừng xe ngoài đường cách vườn lan khoảng 5m để cảnh giới, còn Nguyễn Hữu H đi đến khu vực vườn lan trèo lên trụ hàng rào và lấy cây khều từng chậu lan trong vườn ra, Nguyễn Hữu H dùng tay nhổ các cây hoa lan ra khỏi chậu. Lấy trộm được khoảng hơn 10 cây hoa lan thì Hữu H bỏ vào trong bịch nilon rồi đi ra lên xe do Ngôn Văn H đang chờ sẵn, sau đó cả hai đi về thành phố Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng, đến khoảng 6h30p cùng ngày thì Nguyễn Hữu H liên hệ với Hoàng Ngọc V để bán số hoa vừa trộm cắp được. Hoàng Ngọc V mặc dù biết số lan trên do các đối tượng trộm cắp được nhưng vì hám lợi nên Vấn mua toàn bộ số hoa lan mà Nguyễn Hữu H và Ngôn Văn H trộm cắp được nêu trên với số tiền là 15.000.000đ (mười lăm triệu đồng);

Ngày 08/9/2020 bị hại Nguyễn Thạch V trú tại thôn Labouye A, xã L, huyện Đ có đơn trình báo đêm 07/9/2020 tại vườn nhà ông Vũ bị kẻ gian đột nhập trộm 16 chậu lan, trong đó có 10 chậu lan đột biến với giá trị tài sản bị trộm cắp là 2.150.000.000đ (hai tỷ một trăm năm mười triệu đồng) (Bl 226);

Tại kết luận định giá ngày 16/9/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự của UBND huyện Đ số 40/2020/KL/HĐĐGTS xác định giá trị thiệt hại của 09 cây hoa phong lan được xác định là 583.000.000đ (năm trăm tám mươi ba triệu đồng);

Tại kết luận định giá số 01/2021 ngày 07/1/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Đ xác định 01 cây hoa lan hồng hạc 5 cánh trắng có giá trị 37.500.000đ (ba mươi bảy triệu năm trăm ngàn đồng);

Vụ thứ 2: Khoảng 22h ngày 06/11/2020, Nguyễn Hữu H cùng với Ngôn Văn H điều khiển xe mô tô từ Thành phố Hồ Chí Minh về thành phố Đà Lạt, khi đến ngã ba xã G, huyện L, tỉnh Lâm Đồng thì cả hai phát hiện nhà anh Nguyễn Văn D, ở số 78 Phú Hiệp 1, xã G, huyện L, tỉnh Lâm Đồng có một vườn hoa lan (có đèn điện bật sáng), Hữu H và Văn H bàn với nhau trộm cắp hoa lan trong vườn để bán lấy tiền tiêu xài. Văn H điều khiển xe mô tô đi vào đường đất đối diện vườn lan đứng cảnh giới, còn Hữu H đi bộ men theo bên phải căn nhà rồi trèo lên mái nhà đi theo bờ mái nhà đến giàn trồng hoa lan, Hữu H dùng dao mang theo cắt lưới trên mái giàn hoa rồi lấy các đoạn cây sắt ở gần đó móc từng chậu hoa lan lên, nhổ các cây hoa lan ra khỏi chậu. Khi lấy được khoảng 10 chậu thì Hữu H bỏ số hoa lan vừa trộm cắp được vào bịch nilon, còn chậu thì Hoàng bỏ lại trên giàn và trèo xuống rồi cùng Văn H mang số lan vừa trộm cắp đi về thành phố Bảo Lộc. Đến 7h ngày 08/11/2020, Hữu H liên hệ với Hoàng Ngọc V để bán số lan trộm cắp được cho Vấn. Khi Hữu H và Văn H đến địa điểm mà Vấn hẹn thì Hữu H thấy có Lục Bùi Duy L và Mạc Phi L đi cùng Vấn, sau khi thỏa thuận Vấn đồng ý mua số lan mà Hữu H và Văn H trộm cắp tại nhà anh Dũng với số tiền 20.000.000đ.

Theo kết luận định giá tài sản số 20/KL ngày 11/01/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện L xác định trị giá 04 cây hoa lan có giá trị 4.140.000.000đ (bốn tỷ một trăm bốn mươi triệu đồng);

Như vậy, trong thời gian từ tháng 9/2020 đến tháng 11/2020, các bị cáo Nguyễn Hữu H cùng với Ngôn Văn H đã thực hiện 02 vụ trộm cắp tài sản trên đại bàn tỉnh Lâm Đồng, với tổng trị giá tài sản trộm cắp là 4.760.500.000đ (bốn tỷ bảy trăm sáu mươi triệu năm trăm ngàn đồng).

* Đối với hành vi tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có:

Sau khi thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, Nguyễn Hữu H và Ngôn Văn H đều bán toàn bộ số lan cho Hoàng Ngọc V, sau đó Hoàng Ngọc V đưa một số cây lan cho Lục Bùi Duy L và Mạc Phi L đi tiêu thụ, cụ thể:

Lục Bùi Duy L và Mạc Phi L đã bán cây hồng hạc năm cánh trắng (cây lan này do Nguyễn Hữu H và Ngôn Văn H trộm cắp của anh Nguyễn Thạch Vũ và được định giá là 37.500.000đ “Bl 109”) cho anh Nguyễn Văn L trú tại Thôn Lập lá, xã Lam Sơn, huyện Ninh Sơn, tỉnh Ninh Thuận với số tiền 150.000.000đ. Số tiền này Duy L chia cho Phi L 10.000.000đ.

(Đã trả lại cây lan trên cho anh Vũ: Bl 119, 120, 121) Hoàng Ngọc V đưa cho Mạc Phi L 01 cây hoa lan loại 5 cánh trắng phú Thọ để Phi L bán cho anh Nguyễn Trung Hải trú tại Lộc Tiến, Thành phố Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng với số tiền 35.000.000đ, Phi L được Vấn chia cho 5.000.000đ từ số tiền bán cây hoa lan trên.

Như vậy bị cáo Hoàng Ngọc V là người tiêu thụ toàn bộ số lan do Hữu H và Văn H trộm cắp.

Lục Bùi Duy L tiêu thụ 01 cây lan do Vấn đưa cho bán, có giá trị 37.500.000đ, thu lợi bất chính số tiền 140.000.000đ Mạc Phi L tiêu thụ 02 cây lan do Hoàng Ngọc V đưa cho bán, có giá trị 72.500.000đ, thu lợi bất chính 15.000.000đ Quá trình điều tra, các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Vật chứng thu giữ: Cơ quan CSĐT thu giữ:

- 01 điện thoại di động hiệu Vivo màu đỏ đen, số IMEI: 865950048745715.

- 01 thẻ ATM Ngân hàng Quân đội mang tên Nguyễn Hữu H - 01 giấy phép lái xe số 67015500X3 mang tên Nguyễn Hữu H; 01 giấy chứng nhận đăng ký mô tô xe máy số 136000 (của xe 47B2 – X); 01 giấy chứng nhận bảo hiểm tự nguyện xe xe 47B2 – X; 03 biên lai mua bán vàng Kim Kim Hưng, 01 giấy mua bán vàng Kim Thành Lâm - 01 xe moto Yamaha, số khung: 0610HY 546730 mang biển kiểm soát 47L1-X thu giữ của bị cáo Nguyễn Hữu H.

- 01 điện thoại di động Realme màu xanh, số IMEI: 860343042306179 (có bảng thống kê vật chứng kèm theo) - 01 CMND mang tên Mạc Phi L - 01 cây hoa lan gồm 2 nhánh: mỗi nhánh dài 10cm (đã xử lý vật chứng bằng hình thức trả lại cho ông Nguyễn Văn D) BL: 122, 123 - 01 cây hoa lan gồm 2 nhánh: mỗi nhánh dài 10cm (đã xử lý vật chứng bằng hình thức trả lại cho ông Nguyễn Văn D) BL: 122, 123 - 01 cây hoa lan gồm 3 nhánh: một nhánh dài 62cm, một nhánh dài 47cm, một nhánh dài 10cm; 02 mầm, mỗi mầm dài 03cm (đã xử lý vật chứng bằng hình thức trả lại cho ông Nguyễn Văn D) BL:122, 123 - 01 cây hoa lan gồm 3 nhánh: một nhánh dài 30cm, một nhánh dài 10cm, một nhánh dài 07cm (đã xử lý vật chứng bằng hình thức trả lại cho ông Nguyễn Thạch Vũ) BL: 121 Ngoài ra trong quá trình điều tra vụ án, Cơ quan CSĐT đã thu giữ gồm:

34 chậu hoa lan thu của Hoàng Ngọc V; 16 chậu cây hoa lan, các đoạn thân cây hoa lan thu của Bùi Thị Thanh Vân (vợ của Vấn); 02 chậu cây hoa lan thu của Lục Bùi Duy L; 07 chậu cây hoa lan thu tại vườn lan Huy Hoàng sau khi thu, cơ quan CSĐT đã bàn giao số cây hoa lan trên cho ông Nguyễn Văn D (xã G, huyện L, tỉnh Lâm Đồng) quản lý, chăm sóc. Tuy nhiên, qua một thời gian quản lý chăm sóc các cây hoa lan trên, ông Dũng đã thông báo đến cơ quan CSĐT Công an tỉnh Lâm Đồng sự việc số cây hoa lan mà ông được giao chăm sóc đã chết, nguyên nhân là do khi được bàn giao thì các cây hoa lan đều ở trong tình trạng đứt rễ, hư gốc.

(có bảng thống kê vật chứng kèm theo)

Trách nhiệm dân sự:

Ông Nguyễn Văn D yêu cầu các bị cáo có trách nhiệm bồi thường thiệt hại về kinh tế, tuy nhiên số tiền cụ thể ông Dũng sẽ trình bày khi vụ án được đưa ra xét xử;

Bà Đỗ Thị V (vợ của bị hại Nguyễn Thạch Vũ) không yêu cầu bồi thường thiệt hại về kinh tế.

Bị cáo Lục Bùi Duy L đã tự nguyện nộp số tiền 30.000.000đ.

Tại Cáo trạng số 05/CT-VKSLĐ ngày 14/02/2022, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lâm Đồng truy tố các bị cáo Nguyễn Hữu H, Ngôn Văn H về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 4 Điều 173 Bộ luật hình sự; bị cáo Hoàng Ngọc V phạm tội “ Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” quy định tại điểm a khoản 4 Điều 323 Bộ luật hình sự; bị cáo Lục Bùi Duy L về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” quy định tại điểm d khoản 2 Điều 323 Bộ luật hình sự; bị cáo Mạc Phi L về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” quy định tại khoản 1 Điều 323 Bộ luật hình sự.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 13/2023/HS-ST ngày 27 tháng 3 năm 2023, Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng đã quyết định:

Căn cứ điểm a khoản 4 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Ngôn Văn H 12 (mười hai) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày 17/01/2021.

Căn cứ điểm a khoản 4 Điều 323; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Hoàng Ngọc V 10 (mười năm) tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo thi hành án.

Ngoài ra, Toà án cấp sơ thẩm còn xử phạt các bị cáo khác mức án từ 12 tháng tù cho hưởng án treo đến 13 năm tù, tuyên về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo vụ án theo luật định.

Sau khi xét xử sơ thẩm, các bị cáo Nguyễn Hữu H, Lục Bùi Duy L và Mạc Phi L không có kháng cáo.

Ngày 03/4/2023, Bị cáo Hoàng Ngọc V có đơn kháng cáo đề nghị huỷ Bản án sơ thẩm vì có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Bị cáo Ngôn Văn H có đơn kháng cáo đề nghị xét xử lại vụ án vì mức án 12 năm tù đối với bị cáo là quá nặng do viêc định giá tài sản là quá cao.

Ngày 26/12/2023 bị cáo Ngôn Văn H có văn bản xin rút toàn bộ kháng cáo vì xác định Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng đã xét xử đúng quy định pháp luật.

Ngày 15/01/2024 Toà án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh đã ban hành Quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với bị cáo Ngôn Văn H.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Bị cáo Hoàng Ngọc V đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không rõ lý do, các luật sư bào chữa cho bị cáo V có văn bản xin xét xử vắng mặt. Đại diện viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh đề nghị tiến hành xét xử vụ án.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án:

Căn cứ vào chứng cứ có tại hồ sơ và được thẩm vấn công khai tại phiên toà thì có đủ cơ sở để kết luận các bị cáo Nguyễn Hữu H và Ngôn Văn H lén lút chiếm đoạt tài sản là các cây hoa lan của bị hại, sau đó bán cho Hoàng Ngọc V lấy tiền tiêu xài, bị cáo Hoàng Ngọc V biết rõ các cây Hoa lan là tài sản do Hoàng trộm cắp nhưng vẫn đồng ý mua để bán lại kiếm lời. Hành vi của Ngôn Văn H cấu thành tội “trộm cắp tài sản” theo Điều 173 Bộ luật hình sự; hành vi của Hoàng Ngọc V cấu thành tội “tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo Điều 323 Bộ luật hình sự.

Đối với bị cáo Ngôn Văn H đã rút toàn bộ kháng cáo và Toà án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh ban hành Quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với bị cáo Ngôn Văn H, Bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật đối với bị cáo Ngôn Văn H.

Còn bị cáo V kháng cáo cho rằng việc định giá là không đúng pháp luật là không có căn cứ vì Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự cấp sơ thẩm đã xác định rõ có khảo sát giá thị trường và khảo sát hoa lan của Hội quán hoa Bảo lộc, Hội hoa lan Tây Nguyên nên các kết quả định giá này là đúng pháp luật. Tài sán sản các bị cáo chiếm đoạt và tiêu thụ có giá trị là 4.760.500.000đ nên cấp sơ thẩm áp dụng điểm a khoản 3 Điều 323 Bộ luật hình sự đối với bị cáo V là đúng.

Đề nghị Hội đồng xét xử bác kháng cáo của bị cáo V và giữ nguyên Bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Bị cáo Hoàng Ngọc V đã được Toà án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vắng mặt không rõ lý do, đồng thời các luật sư bào chữa cho bị cáo có văn bản xin xét xử vắng mặt. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ Điều 351 Bộ luật Tố tụng hình sự tiến hành xét xử vụ án theo quy định.

[2] Đối với bị cáo Ngôn Văn H; vào ngày 26/12/2023 bị cáo Ngôn Văn H có văn bản xin rút toàn bộ kháng cáo vì xác định Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng đã xét xử đúng quy định pháp luật.

Ngày 15/01/2024 Toà án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh đã ban hành Quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với bị cáo Ngôn Văn H. Vì vậy, Bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật đối với bị cáo Ngôn Văn H kể từ ngày 15/01/2024.

[3] Do cần tiền tiêu xài cá nhân nên trong thời gian từ tháng 9/2020 đến tháng 11/2020, Nguyễn Hữu H và Ngôn Văn H đã thực hiện nhiều vụ trộm cắp lan trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng, cụ thể:

Vụ thứ nhất: Vào khoảng 02- 03h ngày 08/9/2020, Ngôn Văn H và Nguyễn Hữu H đi đến khu vực vườn lan của ông Nguyễn Thạch Vũ ở thôn Labouye A, xã L, huyện Đ, Hữu H cảnh giới còn Văn H trèo lên trụ hàng rào và lấy cây khều từng chậu lan trong vườn ra, Nguyễn Hữu H dùng tay nhổ các cây hoa lan ra khỏi chậu. Các bị cáo lấy trộm được khoảng hơn 10 cây hoa lan.

Vụ thứ hai: Vào đêm 06/11/2020, Nguyễn Hữu H cùng với Ngôn Văn H phát hiện nhà anh Nguyễn Văn D, địa chỉ số 78 Phú Hiệp 1, xã G, huyện L, tỉnh Lâm Đồng có một vườn hoa lan nên Văn H đứng cảnh giới, còn Hữu H đi bộ men theo bên phải căn nhà rồi trèo lên mái nhà đi theo bờ mái nhà đến giàn trồng hoa lan, Hữu H dùng dao mang theo cắt lưới trên mái giàn hoa lấy được khoảng 10 chậu hoa lan.

[4] Sau đó, Nguyễn Hữu H và Ngôn Văn H đem bán toàn bộ số lan cho Hoàng Ngọc V. Mặc dù biết số lan trên do các đối tượng trộm cắp được nhưng vì hám lợi nên Vấn vẫn mua toàn bộ, cụ thể gồm 03 lần: lần 1 trả 15.000.000đ; lần 2 trả 20.000.000đ, lần 3 trả 20.000.000đ và lần 4 trả 10.000.000đ. Vấn bán một số lan cho Lục Bùi Duy L gồm 04 lần: lần 1 dòng lan Phú Thọ HO (từ 5-7 cây) giá 50.000.000đ; lần 2 dòng lan 5 cánh trắng Phú Thọ dài khoảng 50cm giá 30.000.000đ; lần 3 dòng lan bạch tuyết dài khoảng 30cm, có khoảng 3-4 mầm dài 10cm giá 55.000.000đ và lần 04 dòng lan 5 cánh trắng Phú Thọ dài khoảng 40cm giá 15.000.000đ. Ngoài ra, Vấn còn giao cho Mạc Phi L đi tiêu thụ bán 01 cây hoa lan loại 5 cánh trắng Phú Thọ cho anh Nguyễn Trung Hải trú tại Lộc Tiến, thành phố Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng với số tiền 35.000.000đ và được Vấn chia cho 7.000.000đ. Đồng thời, Lục Bùi Duy L và Mạc Phi L đã bán cây hồng hạc năm cánh trắng cho anh Nguyễn Văn L trú tại Thôn Lập Lá, xã Lam Sơn, huyện Ninh Sơn, tỉnh Ninh Thuận với số tiền 150.000.000đ, Duy L chia cho Phi L 10.000.000đ;

[5] Tại kết luận định giá ngày 16/9/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự của UBND huyện Đ số 40/2020/KL/HĐĐGTS xác định giá trị thiệt hại của 09 cây hoa phong lan được xác định là 583.000.000đ (năm trăm tám mươi ba triệu đồng);

Tại kết luận định giá số 01/2021 ngày 07/1/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Đ xác định 01 cây hoa lan hồng hạc 5 cánh trắng có giá trị 37.500.000đ (ba mươi bảy triệu năm trăm ngàn đồng);

Tại kết luận định giá tài sản số 20/KL ngày 11/01/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện L xác định trị giá 04 cây hoa lan có giá trị 4.140.000.000đ (bốn tỷ một trăm bốn mươi triệu đồng);

Như vậy tổng giá trị tài sản các bị cáo Hữu H, Văn H lén lút chiếm đoạt và bị cáo V tiêu thụ là: 4.760.500.000 đồng.

[6] Quá trình điều tra, xét xử sơ thẩm các bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nêu trên. Tuy nhiên bị cáo Hoàng Ngọc V cho rằng việc định giá tài sản đối với các cây hoa lan đột biến là không đúng pháp luật vì không có văn bản pháp lý nào xác định là lan đột biến và định giá quá cao vì không có giao dịch thực tế để so sánh. Xét nội dung kháng cáo này của các bị cáo, thấy rằng: Theo quy định tại khoản 1 Điều 15 Nghị định số 30/2018/NĐ-CP ngày 07/3/2018 của Chính phủ về căn cứ định giá tài sản:

1. Việc định giá tài sản không phải là hàng cấm phải dựa trên ít nhất một trong các căn cứ sau:

a) Giá thị trường của tài sản;

b) Giá do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định, quyết định;

c) Giá do doanh nghiệp thẩm định giá cung cấp;

d) Giá trong tài liệu, hồ sơ kèm theo tài sản cần định giá (nếu có);

đ) Các căn cứ khác về giá hoặc giá trị của tài sản cần định giá.

Và theo điểm a khoản 2 Điều 8 Thông tư số 30/2020/TT-BTC ngày 17/4/2020 của Bộ Tài chính về căn cứ định giá tài sản quy định tại khoản 1 Điều 15 Nghị định số 30/2018/NĐ-CP “Giá thị trường của tài sản là giá giao dịch phổ biến trên thị trường của loại tài sản cần định giá hoặc tài sản tương tự với tài sản cần định giá tại thời điểm định giá và địa điểm định giá được yêu cầu định giá.

Giao dịch phổ biến trên thị trường là hoạt động mua, bán tài sản được tiến hành hợp pháp và công khai trên thị trường. Một tài sản được coi là có giao dịch phổ biến khi có ít nhất 03 tài sản tương tự có giao dịch mua, bán trên thị trường. Mức giá giao dịch phổ biến được thu thập là giá mua, bán thực tế của giao dịch thành công; giá niêm yết của tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ; giá chào bán, giá chào mua; giá kê khai; giá trúng thầu; giá ghi trên hóa đơn, hợp đồng mua bán hàng hóa, dịch vụ...” Như vậy, tuỳ theo đặc điểm và điều kiện lưu thông trên thị trường của từng loại tài sản mà Hội đồng định giá hoặc tổ giúp việc (nếu có) tiến hành khảo sát giá trực tiếp trên thị trường, trên các trang thông tin điện tử do cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp có hoạt động sản xuất, kinh doanh mặt hàng là tài sản đang cần định giá cung cấp qua mạng internet theo quy định của pháp luật..

Đối chiếu với biên bản định giá tài sản, kết luận định giá tài sản của Hội đồng đinh giá tài sản trong tố tụng hình sự của huyện Dơn Dương và huyện L đều thể hiện Hội đồng định giá đã tiến hành khảo sát giá mua, bán tài sản cùng loại hoặc tương đương trên thị trường và khảo sát hoa lan của Hội quán hoa lan Bảo Lộc, Hội hoa lan Tây Nguyên. Như vậy, kết luận định giá nêu trên là đúng quy định pháp luật. Kháng cáo của bị cáo về định giá tài sản là không có cơ sở chấp nhận.

[7] Hành vi nêu trên của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của những người bị hại, xâm phạm trật tự công cộng, an toàn xã hội. Hành vi của bị cáo Ngôn Văn H lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”, hành vi của bị cáo Hoàng Ngọc V biết rõ tài sản do trộm cắp nhưng vẫn mua đã cấu thành tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”. Do tài sản các bị cáo chiếm đoạt, tiêu thụ có giá trị 4.760.500.000 đồng nên Toà án cấp sơ thẩm đã áp dụng tình tiết định khung tăng nặng “chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên” theo điểm a khoản 4 Điều 173 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Văn H; “tài sản, vật phạm pháp trị giá 1.000.000.000 đồng trở lên” theo điểm a khoản 4 Điều 323 Bộ luật hình sự đối với bị cáo V là có căn cứ, đúng pháp luật.

[8] Xét mức hình phạt đối với bị cáo Hoàng Ngọc V thấy rằng; mặc dù quá trình điều tra bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bản thân chưa có tiền án tiền sự nhưng bị cáo bị áp dụng tình tiết tăng nặng “phạm tội 02 lần trở lên” theo điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Do đó, Toà án cấp sơ thẩm xử bị cáo V 10 năm tù là mức án khởi điểm của khung hình phạt, không nặng. Tại phiên toà hôm nay, bị cáo V không có thêm tình tiết giảm nhẹ nào mới nên không có căn cứ giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

[9] Quan điểm của đại diện Việm kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh đề nghị bác kháng cáo của bị cáo V và giữ nguyên Bản án sơ thẩm là có căn cứ, được chấp nhận.

[10] Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo V phải chịu tiền án phí hình sự phúc thẩm theo luật định.

[11] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị tiếp tục có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355 của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015;

Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Hoàng Ngọc V.

Giữ nguyên bản án sơ thẩm số 13/2023/HS-ST ngày 27/3/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng về hình phạt đối với bị cáo Hoàng Ngọc V.

Căn cứ điểm a khoản 4 Điều 323; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Hoàng Ngọc V 10 năm tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo thi hành án.

Bị cáo Hoàng Ngọc V phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự phúc thẩm Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị tiếp tục có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

177
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 54/2024/HS-PT về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có

Số hiệu:54/2024/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/01/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;