Bản án 54/2021/HS-ST ngày 14/05/2021 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN THANH KHÊ - TP. ĐÀ NẴNG

 BẢN ÁN 54/2021/HS-ST NGÀY 14/05/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

 Trong ngày 14 ngày 5 tháng 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân, quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 41/2021/TLST-HS ngày 15/4/2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 41/2021/QĐXXST-HS ngày 29 tháng 4 năm 2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Tạ Phi H, tên gọi khác: không. Sinh ngày: 08/9/1961; tại TP Hà Nội; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Tổ 09 phường Tân Chính, quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng; Nơi cư trú: 528/47 Ông Ích Khiêm, phường Hải Châu 2, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng; Nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa (học vấn):10/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Tạ Văn Đ (chết) và bà Trần Thị Ng (chết); gia đình có 03 chị em, bị cáo là con thứ hai; có vợ Cao Thị D (chết), có 03 con (con lớn sinh năm 1983, con nhỏ nhất sinh năm 1989).

- Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tại ngoại (có mặt tại phiên tòa).

- Đại diện hợp pháp cho bị cáo: Bà Tạ Thị Mai H; trú tại: Tổ 09 phường Tân Chính, quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng (bà Hương con của bị cáo H). Có mặt

 - Người bào chữa cho bị cáo: Ông Thái Quốc Việt - Luật sư thuộc Công ty Luật TNHH MTV Trung Tín - Đoàn luật sư thành phố Đà Nẵng (có mặt).

- Bị hại: Ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1977; trú tại: K88/16 Lê Đình Lý, thành phố Đà Nẵng (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biễn tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 15 giờ 30 phút ngày 23/10/2020, Tạ Phi H điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Sufat màu đỏ, BKS: 43h7-2302 đến xưởng cơ khí của anh Nguyễn Văn T tại số K88/9B đường Lê Đình Lý, phường Vĩnh trung, quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng để đặt làm bảng hiệu đèn LED. Đến nơi, Tạ Phi H đi lên tầng 3 gặp anh Tân để thương lượng làm bảng hiệu. Sau đó lợi dụng lúc anh Tân đi ra phía sau nhà, Tạ Phi H trộm cắp 01 ví da (bên trong có số tiền 7.200.000đ và một số giấy tờ cá nhân) của anh T đang để trên bàn làm việc rồi cất giấu vào trong túi quần và bỏ đi. Sau khi có được tài sản, Tạ Phi H tiêu xài cá nhân hết số tiền 7.200.000đ. Đến chiều ngày 24/10/2020, Tạ Phi H nhờ một người xe ôm (không rõ lai lịch) đem ví da và giấy tờ cá nhân đến trả cho anh T.

Đến ngày 27/10/2020, anh T đến Công an phường Vĩnh Trung, quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng trình báo sự việc.

* Vật chứng tạm giữ: 01 xe mô tô hiệu Sufat màu đỏ, BKS: 43h7-2302 do Tạ Phi Hoàng giao nộp.

* Kết luận giám định pháp y tâm thần theo trưng cầu số 37/KLGĐ ngày 13/01/2021 của Trung tâm pháp y tâm thần khu vực Miền Trung - Bộ y tế kết luận đối với Tạ Phi H:

- Trước thời điểm gây án:

a. Kết luận về y học: Rối loạn phân liệt cảm xúc loại hưng cảm (F25.0).

b. Kết luận về khả năng nhận thức và điều khiển hành vi: Hạn chế khả năng nhận thức và hạn chế khả năng điều khiển hành vi.

- Tại thời điểm gây án:

a. Kết luận về y học: Rối loạn phân liệt cảm xúc loại hưng cảm (F25.0).

b. Kết luận về khả năng nhận thức và điều khiển hành vi: Hạn chế khả năng nhận thức và hạn chế khả năng điều khiển hành vi.

- Tại thời điểm hiện tại:

a. Kết luận về y học: Rối loạn phân liệt cảm xúc loại hưng cảm (F25.0).

b. Kết luận về khả năng nhận thức và điều khiển hành vi: Hạn chế khả năng nhận thức và hạn chế khả năng điều khiển hành vi.

* Xử lý vật chứng: Chiếc xe mô tô nhãn hiệu Sufat màu đỏ, BKS: 43H7- 2302 do ông Lê Hùng Thu (sinh năm 1967; trú tại phường Hòa Khê, quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng) đứng tên chủ sở hữu. Khoảng tháng 7/2020, ông Thu bán lại xe cho chị Tạ Thị Mai H (con ruột của bị cáo Tạ Phi H). Chị H không biết Hoàng sử dụng xe làm phương tiện trộm cắp tài sản nên ngày 21/11/2020 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Thanh Khê đã trả lại cho chị Hương.

* Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại anh Nguyễn Văn Tân yêu cầu Tạ Phi Hoàng bồi thường số tiền 7.200.000đ.

Quá trình điều tra, Tạ Phi H đã khai nhận toàn bộ hành vi trộm cắp như đã nêu trên.

* Tại bản cáo trạng số 49/CT-VKS ngày 13/4/2021, Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng đã truy tố Tạ Phi Hoàng về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

- Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê thực hành quyền công tố nhà nước giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Tạ Phi H về tội "Trộm cắp tài sản" quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Căn cứ vào nhân thân, tính chất mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo Tạ Phi Hoàng.

+ Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s, q khoản 1 Điều 51 và Điều 65 của Bộ luật Hình sự.

Về tội danh: Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Tạ Phi H phạm tội "Trộm cắp tài sản" Về hình phạt: Đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo Tạ Phi H từ 09 (chín) tháng đến 15 (mười lăm) tháng tù nhưng cho hưởng án treo.

Về trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo Tạ Phi H phải bồi thường cho anh Nguyễn Văn Tân số tiền 7.200.000đ.

- Tại phiên tòa bị cáo Tạ Phi H thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản cáo trạng đã truy tố là đúng; và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình pahtj cho bị cáo.

- Đại diện hợp pháp của bị cáo thống nhất với cáo trạng đã truy tố bị cáo Tạ Phi H, xin Hội đồng xét xử xem xét cho hoàn cảnh của gia đình để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

- Người bào chữa cho bị cáo thống nhất với tội danh điều luật áp dụng của đại diện Viện Kiểm sát và đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng hình phạt cải tạo không giam giữ để bị cáo có cơ hội chữa bệnh.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau :

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Thanh Khê, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và người tham gia tố tụng khác không ai có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của các Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Quá trình điều tra, xét hỏi và tranh tụng tại phiên tòa hôm nay bị cáo Tạ Phi H đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như sau:

Khoảng 15 giờ 30 phút ngày 23/10/2020, bị cáo đến xưởng cơ khí của anh Nguyễn Văn T tại số K88/9B đường Lê Đình Lý, phường Vĩnh trung, quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng để đặt làm bảng hiệu đèn LED, lợi dụng lúc anh T đi ra phía sau nhà, bị cáo trộm cắp 01 ví da (bên trong có số tiền 7.200.000đ và một số giấy tờ cá nhân) của anh Tân đang để trên bàn làm việc rồi cất giấu vào trong túi quần và bỏ đi. Sau khi có được tài sản, bị cáo tiêu xài cá nhân hết số tiền 7.200.000đ.

Như vậy lời khai thừa nhận của bị cáo Tạ Phi H tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra, lời khai của người bị hại và các tài liệu, chứng cứ khác mà Cơ quan điều tra đã thu thập có trong hồ sơ vụ án. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo Tạ Phi H đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” được quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự. Như vậy, Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê đã đưa ra các chứng cứ buộc tội và truy tố bị cáo về tội danh nêu trên là có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật.

[3] Xét tính chất vụ án, hành vi phạm tội của bị cáo thì thấy:

Hành vi của bị cáo Tạ Phi H đã cố ý xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, làm mất trật tự trị an xã hội. Giá trị tài sản bị cáo chiếm đoạt của bị hại là 7.200.000 đồng, hành vi phạm tội của bị cáo được quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự có khung hình phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm thuộc trường hợp ít nghiêm trọng.

Vì vậy cần phải có một mức hình phạt tương xứng với tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo để giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội cũng là bài học giáo dục răn đe đấu tranh phòng ngừa chung.

[4] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có.

- Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải; bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn; tại bản kết luận giám định pháp y tâm thần theo trưng cầu số 37/KLGĐ ngày 13/01/2021 của Trung tâm pháp ý tâm thần khu vực miền trung đã kết luận: Trước thời điểm gây án, tại thời điểm gây án và thời điểm hiện tại Tạ Phi H đều bị hạn chế khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi; Rối loạn phân liệt cảm xúc loại hưng cảm nên đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại các điểm h, i, s, q khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Hội đồng xét xử sẽ áp dụng cho bị cáo khi lượng hình.

[5] Xét thấy: Bị cáo Tạ Phi H phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, bị cáo có nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng và có nhiều tình tiết giảm nhẹ được quy định tại Điều 51 của Bộ luật hình sự. Do đó, xét thấy không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội mà giao bị cáo cho chính quyền địa phương nơi cư trú để giám sát, giáo dục cũng có thể trở thành người tốt. Vì vậy, căn cứ Điều 65 Bộ luật hình sự, Điều 2 Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao cho bị cáo được hưởng án treo là phù hợp.

[6] Về dân sự: Qúa trình điều tra truy tố cũng như tại đơn đề nghị xét xử vắng mặt gửi đến Tòa án ngày 13/5/2021, người bị hại yêu cầu bị cáo Tạ Phi H phải bồi thường số tiền 7.200.000đ.

Xét thấy yêu cầu của người bị hại là có căn cứ và chính đáng. Vì vậy Hội đồng xét xử chấp nhận.

[7] Về án phí HSST: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30.12.2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

- Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

- Bị cáo phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; các điểm h, i, s, q khoản 1 Điều 51 và Điều 65 của Bộ luật Hình sự; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30.12.2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố: Bị cáo Tạ Phi H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt: Bị cáo Tạ Phi H 09 (chín) tháng tù nhưng cho hưởng án treo thời gian thử thách là 18 (mười tám) tháng kể từ ngày tuyên án.

Giao bị cáo Tạ Phi H cho Ủy ban nhân dân phường Hải Châu 2, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp cùng chính quyền địa phương giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách.

Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 69 Luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo theo quy định tại khoản 5 Điều 65 Bộ luật Hình sự.

2. Về dân sự: Căn cứ Điều 48 của Bộ luật hình sự;

- Buộc bị cáo Tạ Phi H phải bồi thường cho anh Nguyễn Văn T số tiền 7.200.000đ (bảy triệu hai trăm nghìn đồng).

3. Về án phí:

- Buộc bị cáo Tạ Phi H phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm;

- Buộc bị cáo Tạ Phi H phải chịu 360.000đ (ba trăm sáu mươi nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

4. Án xử sơ thẩm công khai, bị cáo, đại diện hợp pháp của bị cáo, luật sư bào chữa cho bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng người bị hại vắng mặt tại phiên tòa, có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được trích sao bản án, hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

304
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

 Bản án 54/2021/HS-ST ngày 14/05/2021 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:54/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Thanh Khê - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;