Bản án 54/2021/HNGĐ-ST ngày 18/03/2021 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HOÀ, TỈNH ĐỒNG NAI 

BẢN ÁN 54/2021/HNGĐ-ST NGÀY 18/03/2021 VỀ LY HÔN 

Ngày 18 tháng 3 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố B xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 2386/2020/TLST-HNGĐ ngày 13 tháng 11 năm 2020 về việc “Ly hôn” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 31/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 01 tháng 02 năm 2021, quyết định hoãn phiên toà số 52/2021/QĐST - HNGĐ ngày 26 tháng 02 năm 2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Trần Đắc H, sinh năm 1988.

- Bị đơn: Chị Trịnh Thị T, sinh năm 1994

Cùng nơi cư trú: 12/4, tổ 42B, khu phố 8, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 28 tháng 8 năm 2020 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn anh Trần Đắc H trình bày : Anh và chị T xây dựng gia đình vào năm 2016 trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn ngày 25/7/2016 tại UBND phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai.

Quá trình vợ chồng chung sống hạnh phúc thời gian đầu, sau đó vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, bất đồng về quan điểm sống trong cách chăm sóc gia đình. Nguyên nhân là do tính tình không còn hoà hợp, bất đồng về quan điểm sống, vợ chồng không còn tôn trọng, tin tưởng lẫn nhau dẫn đến thường xuyên xảy ra xung đột, cãi vã lẫn nhau. Bản thân anh không muốn gia đình đổ vỡ nên đã nhiều lần hàn gắn tình cảm vợ chồng để tiếp tục cùng nhau nuôi dạy con cái. Tuy nhiên cho đến nay mâu thuẫn vợ chồng vẫn không thể hàn gắn được mà ngày càng trở nên trầm trọng. Mặc dù hiện nay anh và chị Tân vẫn cùng chung sống một nhà nhưng khoảng 2 năm nay mạnh ai nấy sống, không ai còn quan tâm đến ai nữa. Nay anh xác định tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên xin được ly hôn với chị Tân để trả tự do cho nhau.

Về con chung: có 01 con chung tên Trần Đắc An Kh, sinh ngày 26/9/2016.

Anh Hưng đề nghị được tiếp tục nuôi dưỡng cháu Kh, không yêu cầu chị T cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Tự thoả thuận, không yêu cầu Toà án giải quyết. Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Toà án giải quyết.

Ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa: Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: Nguyên đơn vắng mặt tại phiên tòa nhưng đã có lời khai, có yêu cầu giải quyết vắng mặt nên nguyên đơn thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, 71 Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn vắng mặt tại phiên toà, không có lời khai nên bị đơn không thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, 72 Bộ luật tố tụng dân sự.

Ý kiến về việc giải quyết vụ án: Đề nghị chấp nhận yêu cầu ly hôn của anh Trần Đắc H.

Về con chung: Giao cháu Trần Đắc An Kh, sinh ngày 26/9/2016 cho anh Hưng nuôi dưỡng là phù hợp với quy định của pháp luật.

Tài sản chung, nợ chung: Giải quyết bằng vụ kiện khác khi các bên có yêu cầu.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Anh Trần Đắc H xin ly hôn chị Trịnh Thị T, chị T là bị đơn có hộ khẩu thường trú và cư trú tại thành phố B, tỉnh Đồng Nai. Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án trên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố B.

Chị Trịnh Thị T đã được Tòa án tống đạt hợp lệ giấy triệu tập, thông báo hoà giải, thông báo công khai việc kiểm tra giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, xét xử nhưng đều vắng mặt không có lý do. Căn cứ khoản 1 Điều 207, Điều 208; điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự Tòa án nhân dân thành phố B tiến hành đưa vụ án xét xử theo quy định của pháp luật.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Anh H và chị T xây dựng gia đình với nhau vào năm 2016, có đăng ký kết hôn vào ngày 25/7/2016 tại UBND phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai nên được xem là hôn nhân hợp pháp theo Điều 9 Luật hôn nhân gia đình năm 2014.

Quá trình vợ chồng chung sống hạnh phúc thời gian đầu, sau đó vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, bất đồng về quan điểm sống trong cách chăm sóc gia đình. Nguyên nhân là do tính tình không còn hoà hợp, bất đồng về quan điểm sống, vợ chồng không còn tôn trọng, tin tưởng lẫn nhau dẫn đến thường xuyên xảy ra xung đột, cãi vã lẫn nhau. Bản thân anh Hưng không muốn gia đình đổ vỡ nên đã nhiều lần hàn gắn tình cảm vợ chồng để tiếp tục cùng nhau nuôi dạy con cái. Tuy nhiên cho đến nay mâu thuẫn vợ chồng vẫn không thể hàn gắn được mà ngày càng trở nên trầm trọng. Mặc dù hiện nay anh Hưng và chị Tân vẫn cùng chung sống một nhà nhưng khoảng 2 năm nay anh chị không ai còn quan tâm đến ai nữa. Nay anh xác định tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên xin được ly hôn với chị T để trả tư do cho nhau.

Quá trình Tòa án thụ lý giải quyết đã nhiều lần mời chị T làm việc nhưng chị Tân không đến chứng tỏ chị đã bỏ mặc tình trạng hôn nhân của mình không quan tâm đến việc hàn gắn gia đình. Mặt khác tại biên bản xác minh ngày 17/11/2020 bà Trần Thị Thanh Th là mẹ ruột cùng chung sống với anh H và chị T xác nhận tình trạng mâu thuẫn của anh H và chị T là có thật. Khoảng 2 năm nay anh H và chị T mặc dù cùng sống chung một nhà nhưng không ai còn quan tâm đến ai. Gia đình hai bên đã nhiều lần khuyên bảo hàn gắn tình cảm vợ chồng để vợ chồng tiếp tục cùng nhau nuôi dạy con cái nhưng không thành.

Xét thấy, tình trạng mâu thuẫn của vợ chồng anh H, chị T có kéo dài cũng không đem đến hạnh phúc, chị T không có thiện chí hoặc biện pháp để hàn gắn gia đình, mục đích hôn nhân không đạt; Căn cứ Điều 51, Điều 56 và Điều 131 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 chấp nhận đơn xin ly hôn của anh H, cho anh H được ly hôn với chị T.

[3] Về con chung: Anh H và chị T có 01 con chung : cháu Trần Đắc An Kh, sinh ngày 26/9/2016.

Anh H yêu cầu được nuôi dưỡng, chăm sóc cháu Kh, do cháu Kh hiện nay anh H đang trực tiếp nuôi dưỡng nên chấp nhận yêu cầu của anh H giao cháu Kh cho anh H tiếp tục nuôi dưỡng. Do anh H không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung nên tạm thời chị T không cấp dưỡng nuôi con chung. Chị T được quyền thăm nom con không ai cản trở.

Vì quyền lợi của trẻ khi cần thiết các bên được quyền xin thay đổi người trực tiếp nuôi con và cấp dưỡng nuôi con.

[4] Về tài sản chung, về nợ chung: do chưa có ý kiến trình bày của chị T về tài sản và nợ chung nên giải quyết bằng vụ kiện dân sự khác khi các bên có yêu cầu.

[5] Về án phí: Anh Trần Đắc H phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố B phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên ghi nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 1 Điều 207, Điều 208; khoản 3 Điều 228; Điều 271; Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Căn cứ Điều 9, Điều 51, 53, 56, 58, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014; Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án;

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của anh Trần Đắc H, xử cho anh Trần Đắc H được ly hôn chị Trịnh Thị T.

2. Về con chung: Giao cháu Trần Đắc An Kh, sinh ngày 26/9/2016 cho anh Trần Đắc H trực tiếp nuôi dưỡng.

Tạm thời chị Trịnh Thị T không phải cấp dưỡng nuôi con. Chị T có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc con chung mà không ai được cản trở.

Vì quyền lợi của trẻ khi cần thiết các bên được quyền xin thay đổi người trực tiếp nuôi con và cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản chung, nợ chung : giải quyết bằng vụ kiện khác khi các bên có yêu cầu.

4. Về án phí: anh Trần Đắc H phải chịu 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai số 0007194 ngày 28/10/2020 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố B. Anh H đã nộp đủ án phí.

5. Anh Trần Đắc H, chị Trịnh Thị T được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

183
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 54/2021/HNGĐ-ST ngày 18/03/2021 về ly hôn

Số hiệu:54/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 18/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;