TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH GIANG, TỈNH HẢI DƯƠNG
BẢN ÁN 54/2020/HS-ST NGÀY 27/11/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 27 tháng 11 năm 2020, tại trụ sở, Tòa án nhân dân huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 56/2020/TLST-HS ngày 23 tháng 10 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 54/2020/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 11 năm 2020 và Thông báo về việc thay đổi thời gian mở phiên tòa số 01/2020/TB-TA ngày 23 tháng 11 năm 2020 đối với bị cáo:
VŨ MẠNH H - Sinh năm 1986 tại xã TK, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương.
Nơi cư trú: Thôn NC, xã TK, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không. Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 4/12.
Con ông Vũ Mạnh C, sinh năm 1953 và bà Phạm Thị Ng, sinh năm 1963. Có vợ là chị Đặng Thị S (đã ly hôn); Có 01 con sinh năm 2007.
Bị cáo là con duy nhất trong gia đình.
Tiền án: Bản án số 28/2017/HS-ST ngày 07/7/2017 của Tòa án nhân dân huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương xử phạt 24 tháng tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy. H chấp hành xong toàn bộ bản án ngày 31/01/2019.
Nhân thân:
- Bản án số 15 ngày 05/10/2007 của Tòa án nhân dân huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương xử phạt 15 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản. H chấp hành xong toàn bộ bản án ngày 30/8/2008.
- Bản án số 02 ngày 15/01/2013 của Tòa án nhân dân huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương xử phạt 24 tháng tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy. H chấp hành xong toàn bộ bản án ngày 11/10/2014.
- Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 01 ngày 20/12/2011 của Công an huyện Bình Giang xử phạt 1.000.000đ về hành vi Trộm cắp tài sản. Chấp hành xong ngày 26/12/2011.
- Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 90 ngày 12/3/2016 của Công an huyện Bình Giang xử phạt 1.500.000đ về hành vi Trộm cắp tài sản.
Tạm giữ: Không.
Tạm giam: Từ ngày 10/8/2020 đến nay tại Trại tạm giam – Công an tỉnh Hải Dương.
Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
- Người bào chữa cho bị cáo Vũ Mạnh H:
+ Ông Phạm Văn Đ – Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước – Sở tư pháp tỉnh Hải Dương.
Có mặt tại phiên tòa
- Bị hại:
+ Ông Đỗ Đình Q, sinh năm 1963 và bà Nguyễn Thị Đ, sinh năm 1962. Địa chỉ: Thôn LT, xã HK, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương.
+ Anh Vũ Văn Nh, sinh năm 1970 và chị Lê Thị V, sinh năm 1972. Địa chỉ: Thôn ST, xã TH, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương.
Đều vắng mặt tại phiên tòa.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
+ Anh Vũ Văn T – Sinh năm 1998.
Địa chỉ: Số 22/88 ĐVT, phường BH, thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương.
Vắng mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vụ án thứ nhất: Tối ngày 07/8/2020, Vũ Mạnh H đến nhà anh Vũ Hoàng Đ ở thôn BĐ, xã BM, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương chơi. Đến khoảng 19 giờ cùng ngày, do không có xe nên H nhờ anh Đ chở về nhà. Khi đi đến thôn ST, xã TH, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương, H bảo với anh Đ dừng xe để H vào nhà bạn chơi. Anh Đ dừng xe cho H xuống rồi đi về nhà. H đi bộ một mình ra đoạn đường gom cao tốc Hà Nội – Hải Phòng thì phát hiện thấy xe mô tô nhãn hiệu Honda màu đỏ đen BKS 30Y8-1870 của anh Vũ Văn Nh dựng ở rìa đường, chìa khóa vẫn cắm ở ổ khóa điện nên H nảy sinh ý định chiếm đoạt. Quan sát không có người, H tiến đến ngồi lên xe, mở khóa điện rồi nổ máy điều khiển xe đi đến thành phố Hải Dương tìm nơi tiêu thụ. Khoảng 22 giờ cùng ngày, khi H đang đi đến đường An Định thuộc địa phận phường BH, thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương thì bị tổ công tác Công an thành phố Hải Dương phát hiện có biểu hiện nghi vấn nên dừng xe để kiểm tra. Qua đấu tranh, khai thác, H đã khai nhận chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda màu đỏ đen BKS 30Y8- 1870 là do H trộm cắp và đang trên đường tìm nơi tiêu thụ. Ngày 08/8/2020, Cơ quan CSĐT – Công an thành phố Hải Dương đã chuyển toàn bộ hồ sơ vụ việc cùng đối tượng, vật chứng cho Cơ quan CSĐT – Công an huyện Bình Giang để giải quyết theo thẩm quyền.
Tại kết luận định giá tài sản số 31/KL-HĐĐG ngày 10/8/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự - UBND huyện Bình Giang kết luận: Xe mô tô BKS 30Y8-1870 của anh Vũ Văn Nh trị giá 6.000.000đ.
Vụ án thứ hai: Quá trình điều tra, bị cáo còn khai nhận ngoài hành vi trộm cắp xe mô tô của anh Nh ngày 07/8/2020 thì trước đó ngày 04/8/2020, H còn thực hiện hành vi trộm cắp chiếc xe mô tô BKS 34N4-4427 tại cánh đồng thôn LT, xã HK, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương như sau: Khoảng 14 giờ ngày 04/8/2020, H cùng bạn tên C (không rõ họ, tên đệm và địa chỉ) đi xe mô tô của C từ nhà H đến xã HK, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương chơi. Khi đi đến cánh đồng thôn LT, xã HK, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương, H phát hiện xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave màu xanh đen, BKS 34N4-4427 của ông Đỗ Đình Q đang dựng ở rìa đường, chìa khóa vẫn cắm ở ổ khóa điện nên H nảy sinh ý định chiếm đoạt. H nói với C cho H xuống xe để đợi bạn, C cho H xuống xe rồi đi đâu không rõ. Quan sát thấy không có người nên H tiến lại gần xe của ông Q, ngồi lên xe, mở khóa điện rồi điều khiển xe đi lên thành phố Hải Dương bán cho anh Vũ Văn T ở số 22/88 ĐVT, phường BH, thành phố Hải Dương với giá 2.300.000đ rồi chi tiêu cá nhân hết. Khi bán xe, H không nói cho anh T biết chiếc xe mô tô là do H trộm cắp mà có. Ngày 08/8/2020, anh T tự nguyện giao nộp chiếc xe mô tô BKS 34N4-4427 cho Cơ quan điều tra để phục vụ giải quyết vụ án.
Tại kết luận định giá tài sản số 30/KL-HĐĐG ngày 10/8/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự - UBND huyện Bình Giang kết luận: Xe mô tô BKS 30N4-4427 của ông Đỗ Đình Q trị giá 6.500.000đ.
Ngày 01/9/2020, Cơ quan CSĐT – Công an huyện Bình Giang đã trả lại chiếc xe mô tô BKS 34N4-4427 cho ông Đỗ Đình Q. Ngày 04/9/2020, Cơ quan CSĐT – Công an huyện Bình Giang đã trả lại chiếc xe mô tô BKS 30Y8-1870 cho anh Vũ Văn Nh. Ông Q và anh Nh nhận lại tài sản và không yêu cầu bị cáo H phải bồi thường gì về trách nhiệm dân sự. Anh Vũ Văn T tự nguyện không yêu cầu H phải trả lại số tiền 2.300.000đ tiền mà anh T đã bỏ ra mua chiếc xe mô tô BKS 34N4-4427.
Tại bản cáo trạng số 56/CT-VKS ngày 21/10/2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương truy tố bị cáo Vũ Mạnh H về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, bị cáo Vũ Mạnh H thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội và nhất trí với Kết luận định giá tài sản số 30/KL-HĐĐG và 31/KL-HĐĐG ngày 10/8/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự - UBND huyện Bình Giang. Bị cáo công nhận Cáo trạng mà Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Giang truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự là đúng.
Người bào chữa cho bị cáo tại phiên tòa xác định hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội phạm theo tội danh và điều luật như Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Giang truy tố là đúng tuy nhiên đề nghị HĐXX căn cứ vào nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo và hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn, thuộc diện hộ nghèo nên cho bị cáo mức án thấp nhất từ 12 tháng đến 15 tháng tù để bị cáo có cơ hội sửa chữa lỗi lầm, cải tạo thành công dân tốt. Ngoài ra người bào chữa đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền và miễn án phí hình sự sơ thẩm đối với bị cáo vì bị cáo thuộc diện hộ nghèo.
Tranh luận tại phiên tòa, Kiểm sát viên thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử tại phiên tòa trình bày quan điểm giữ nguyên nội dung cáo trạng đã truy tố. Trên cơ sở phân tích, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, hậu quả, điều kiện, nguyên nhân phạm tội, nhân thân của bị cáo. Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử:
Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Vũ Mạnh H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Về hình phạt chính: Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s, r khoản 1 Điều 51, điểm g, h khoản 1 Điều 52, Điều 38 của Bộ luật hình sự.
Xử phạt bị cáo Vũ Mạnh H từ 16 tháng đến 22 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giam 10/8/2020.
Về hình phạt bổ sung: Không đề nghị áp dụng. Về trách nhiệm dân sự: Không phải giải quyết. Về xử lý vật chứng: Không phải giải quyết.
Về án phí: Áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.
Tại lời nói sau cùng, bị cáo thể hiện thái độ ăn năn hối cải và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Giang; Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Giang; Điều tra viên; Kiểm sát viên: Trong quá trình điều tra, truy tố; điều tra viên, kiểm sát viên đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về hành vi của bị cáo Vũ Mạnh H:
Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; phù hợp với biên bản xác định kèm theo sơ đồ hiện trường, kết quả thực nghiệm điều tra, kết luận định giá tài sản, vật chứng thu giữ và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra công khai tại phiên tòa. Từ những chứng cứ nêu trên, có đủ cơ sở để kết luận:
Lợi dụng sơ hở trong quản lý tài sản của các chủ tài sản, trong khoảng thời gian từ ngày 04/8/2020 đến ngày 07/8/2020, Vũ Mạnh H đã thực hiện 02 hành vi trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Bình Giang cụ thể như sau: Khoảng 14 giờ ngày 04/8/2020, tại cánh đồng thôn LT, xã HK, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương, Vũ Mạnh H lén lút chiếm đoạt chếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave màu xanh đen, BKS 34N4-4427 của ông Đỗ Đình Q trị giá 6.500.000đ và khoảng 19 giờ ngày 07/8/2020, tại thôn ST, xã TH, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương, Vũ Mạnh H lén lút chiếm đoạt chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda màu đỏ đen BKS 30Y8-1870 của anh Vũ Văn Nh trị giá 6.000.000đ. Tổng cộng số tài sản bị cáo lén lút chiếm đoạt của cả hai vụ là 12.500.000đ.
Bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự; nhận thức rõ việc lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác nhằm mục đích bán lấy tiền sử dụng cho bản thân là vi phạm pháp luật và gây hậu quả nguy hiểm cho xã hội nhưng bị cáo vẫn thực hiện với lỗi cố ý. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm tới quyền sở hữu về tài sản của cá nhân được pháp luật bảo vệ. Tổng giá trị tài sản bị cáo chiếm đoạt là 12.500.000đ nên có đủ cơ sở khẳng định hành vi của bị cáo đã cấu thành tội Trộm cắp tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Giang truy tố bị cáo theo tội danh và điều luật nêu trên là có căn cứ, đúng pháp luật.
[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo thực hiện 02 hành vi vào hai ngày khác nhau, mỗi hành vi đều đủ yếu tố cấu thành tội Trộm cắp tài sản và nhân thân bị cáo có 01 tiền án, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do lỗi cố ý nên bị cáo phải chịu 02 tình tiết tăng nặng là phạm tội 02 lần và tái phạm theo quy định tại điểm g, h khoản 1 Điều 52 BLHS.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình; bị cáo đã tự thú đối với hành vi trộm cắp chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave màu xanh đen, BKS 34N4-4427 của ông Đỗ Đình Q nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s, r khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.
[4] Về hình phạt: Căn cứ quy định của Bộ luật hình sự, cân nhắc tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy rằng: Bị cáo H là người có nhân thân xấu, đã từng bị kết án và xử phạt vi phạm hành chính về hành vi trộm cắp tài sản nhưng vẫn cố ý tiếp tục thực hiện hành vi trộm cắp tài sản thể hiện ý thức coi thường pháp luật do vậy cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn mới đảm bảo tác dụng giáo dục bị cáo cũng như phòng ngừa chung trong xã hội.
[5] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo thuộc diện hộ nghèo nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[6] Về trách nhiệm dân sự: Ngày 01/9/2020, Cơ quan CSĐT – Công an huyện Bình Giang đã trả lại chiếc xe mô tô BKS 34N4-4427 cho ông Đỗ Đình Q. Ngày 04/9/2020, Cơ quan CSĐT – Công an huyện Bình Giang đã trả lại chiếc xe mô tô BKS 30Y8-1870 cho anh Vũ Văn Nh. Ông Q và anh Nh nhận lại tài sản và không yêu cầu bị cáo H phải bồi thường gì về trách nhiệm dân sự. Anh Vũ Văn T tự nguyện không yêu cầu H phải trả lại số tiền 2.300.000đ tiền mà anh T đã bỏ ra mua chiếc xe mô tô BKS 34N4-4427 nên trách nhiệm dân sự trong vụ án không đặt ra xem xét, giải quyết.
[7] Về xử lý vật chứng: Cơ quan CSĐT – Công an huyện Bình Giang đã trả lại ông Đỗ Đình Q chiếc xe mô tô BKS 34N4-4427 vào ngày 01/9/2020 và trả lại cho anh Vũ Văn Nh chiếc xe mô tô BKS 30Y8-1870 vào ngày 04/9/2020 là phù hợp nên về vật chứng không đặt ra xem xét.
[8] Về các vấn đề khác: Quá trình điều tra, bị cáo khai có cùng anh Vũ Hoàng Đ thực hiện hành vi trộm cắp tài sản tuy nhiên anh Vũ Hoàng Đ không thừa nhận, qua đối chất giữa bị cáo H với anh Đ và các tài liệu khác trong hồ sơ vụ án không đủ căn cứ xác định anh Vũ Hoàng Đ đồng phạm cùng H thực hiện hành vi trộm cắp tài sản. Đối với hành vi của anh Vũ Hoàng Đ, anh C cho H đi nhờ xe, tài liệu thu thập không xác định được anh Đ và anh C giúp sức cho H thực hiện hành vi phạm tội nên không có căn cứ xem xét xử lý đối với trách nhiệm của anh Đ, anh C.
Đối với anh Vũ Văn T mua chiếc xe mô tô BKS 34N4-4427 nhưng không biết tài sản do H phạm tội mà có nên không xem xét đối với trách nhiệm của anh T.
[9] Về án phí: Bị cáo thuộc diện hộ nghèo nên miễn án phí hình sự sơ thẩm đối với bị cáo.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm s, r khoản 1 Điều 51; điểm g, h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự; Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Vũ Mạnh H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Vũ Mạnh H 15 (mười lăm) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giam 10/8/2020.
3. Về án phí: Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Vũ Mạnh H.
4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Bị hại được quyền kháng cáo bản án; Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo phần bản án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.
Bản án 54/2020/HS-ST ngày 27/11/2020 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 54/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Bình Giang - Hải Dương |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 27/11/2020 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về