Bản án 54/2020/HNGĐ-ST ngày 31/03/2020 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 54/2020/HNGĐ-ST NGÀY 31/03/2020 VỀ LY HÔN

Ngày 31 tháng 3 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 49/2020/TLST-HNGĐ ngày 06 tháng 3 năm 2020 về tranh chấp ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 70/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 26 tháng 3 năm 2020 và Thông báo thay đổi thời gian mở phiên tòa số 765/TB-TA ngày 27 tháng 3 năm 2020, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thùy L; ĐKHKTT: Số 82 đường 10, khu phố 3, phường Tăng Nhơn Ph, quận 9, thành phố Hồ Chí Minh; cư trú tại: Germanry, vắng mặt tại phiên tòa.

- Bị đơn: Anh Võ Trần Thanh Gi; nơi cư trú: Số 30/309, đường Đà Nẵng, phường Cầu Tre, quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng, vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện xin ly hôn và bản tự khai, nguyên đơn là chị Nguyễn Thùy L trình bày:

Chị và anh Võ Trần Thanh Gi kết hôn trên cơ sở tự nguyện có tổ chức đám cưới theo phong tục tập quán, có đăng ký kết hôn ngày 11 tháng 01 năm 2018 tại Ủy ban nhân dân phường Tăng Nhơn Phú B, Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc được một thời gian sau thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng trong quan điểm lối sống. Mâu thuẫn vợ chồng ngày càng căng thẳng và trầm trọng nhất là từ đầu năm 2019 cho đến nay chị sang Đức làm ăn và sinh sống thì giữa hai vợ chồng cũng đã ly thân không ai còn quan tâm đến ai cả về tình cảm cũng như kinh tế. Hai bên gia đình cũng đã cố gắng hòa giải những mâu thuẫn nhưng không có kết quả. Đến nay chị nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn khả năng đoàn tụ là không thể nên chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Võ Trần Thanh Gi.

Về nuôi con chung: Chị Nguyễn Thùy L và anh Võ Trần Thanh Gi không có con chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản: Chị Nguyễn Thùy L và anh Võ Trần Thanh Gi tự thỏa thuận nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Trong bản tự khai, bị đơn là anh Võ Trần Thanh Gi trình bày: Anh thống nhất với chị Nguyễn Thùy L về quá trình kết hôn, về con chung, về tài sản chung cũng như nguyên nhân dẫn đến việc vợ chồng mâu thuẫn. Anh Võ Trần Thanh Gi cũng xác định tình cảm vợ chồng không con, khả năng hàn gắn và đoàn tụ là không thể. Nay chị Nguyễn Thùy L có đơn xin ly hôn anh cũng hoàn toàn nhất trí và đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn với chị Nguyễn Thùy L.

Do chị Nguyễn Thùy L hiện tại đang ở nước ngoài và không yêu cầu hòa giải nên căn cứ khoản 2, khoản 4 Điều 207 của Bộ luật Tố tụng dân sự Tòa án không tiến hành hòa giải vụ án.

Tại phiên tòa: Chị Nguyễn Thùy L và anh Võ Trần Thanh Gi đều vắng mặt và cùng có đơn đề nghị xin xét xử vắng mặt.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng tại phiên tòa phát biểu quan điểm:

Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử cấp sơ thẩm, Thư ký đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự từ khi thụ lý cho đến phiên tòa. Các đương sự cũng đã được thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sư.

Về nội dung: Căn cứ vào tài liệu có trong hồ sơ có đủ cơ sở kết luận cuộc sống vợ chồng của chị Nguyễn Thùy L và anh Võ Trần Thanh Gi không có hạnh phúc, do bất đồng quan điểm lối sống. Anh chị đã sống ly thân, không còn quan tâm đến nhau. Như vậy thì mâu thuẫn của anh chị đã đến mức trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Nguyễn Thùy L; về nuôi con chung: Chị Nguyễn Thùy L và anh Võ Trần Thanh Gi không có con chung; về tài sản: Chị Nguyễn Thùy L và anh Võ Trần Thanh Gi tự thỏa thuận nên không đặt vấn đề giải quyết giải quyết.

Chị Nguyễn Thùy L phải chịu án phí và các chi phí tố tụng khác theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, đã được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên toà, Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết: Chị Nguyễn Thùy L và anh Võ Trần Thanh Gi kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Tăng Nhơn Phú B, Quận 9, thành phố Hồ Chí Minh vào ngày 11 tháng 01 năm 2018, theo quy định tại Điều 8, Điều 9 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 đây là hôn nhân hợp pháp. Chị Nguyễn Thùy L hiện đang ở nước ngoài, theo quy định tại khoản 3 Điều 35, điểm b khoản 1 Điều 39, điểm d khoản 1 Điều 469 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng.

[2] Về sự vắng mặt của các đương sự: Chị Nguyễn Thùy L vắng mặt tại phiên tòa, chị có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt và ủy quyền cho người nhà tại Việt Nam nhận văn bản tố tụng của Tòa án cho chị. Anh Võ Trần Thanh Gi đã nhận tống đạt hợp lệ Quyết định đưa vụ án ra xét xử nhưng có đơn xin xét xử vắng mặt. Vì vậy, căn cứ khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228, Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự Toà án tiến hành xét xử vắng mặt chị Nguyễn Thùy L và anh Võ Trần Thanh Gi.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Lời khai của chị Nguyễn Thùy L thống nhất với lời khai của anh Võ Trần Thanh Gi về nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn vợ chồng, phù hợp với ý kiến của đại diện gia đình hai bên. Do đó, có cơ sở xác định cuộc sống chung giữa chị Nguyễn Thùy L và anh Võ Trần Thanh Gi có mâu thuẫn do bất đồng trong quan điểm, lối sống. Mâu thuẫn vợ chồng ngày càng căng thẳng và trầm trọng nhất là từ năm 2019 cho đến nay khi chị Nguyễn Thùy L sang Đức làm ăn và sinh sống thì giữa hai vợ chồng kể từ thời điểm đó cũng đã ly thân không ai còn quan tâm đến ai cả về tình cảm cũng như kinh tế. Mâu thuẫn của anh chị đã được gia đình khuyên bảo, bản thân cả chị L và anh Gi cũng đã cố gắng khắc phục nhưng đều không có kết quả. Nay cả hai cùng xác định tình cảm vợ chồng không còn, như vậy việc chị Nguyễn Thùy L xin ly hôn là hoàn toàn chính đáng. Xét, quan hệ hôn nhân giữa chị Nguyễn Thùy L và anh Võ Trần Thanh Gi đã thực sự không còn yêu thương nhau, cuộc sống chung không thể kéo dài, mâu thuẫn vợ chồng đã đến mức trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, cần áp dụng Điều 51, Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 châp nhân đê nghi xin ly hôn của chị Nguyễn Thùy L.

[4] Về nuôi con chung: Chị Nguyễn Thùy L và anh Võ Trần Thanh Gi không có con chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[5] Về chia tài sản: Chị Nguyễn Thùy L và anh Võ Trần Thanh Gi tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về án phí và chi phí tố tụng: Chị Nguyễn Thùy L là nguyên đơn phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định pháp luật. Chị Nguyễn Thùy L tự nguyện chịu các chi phí tố tụng khác, chấp nhận sự tự nguyện của chị Nguyễn Thùy L.

[7] Về quyền kháng cáo của các đương sự: Chị Nguyễn Thùy L và anh Võ Trần Thanh Gi được quyền kháng cáo Bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 3 Điều 35; điểm b khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; khoản 2, khoản 4 Điều 207; khoản 1 Điều 227; khoản 1 Điều 228; Điều 238; Điều 266; Điều 273; điểm d khoản 1 Điều 469; khoản 2 Điều 479 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ vào Điều 51, Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện về việc xin ly hôn của chị Nguyễn Thùy L.

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Nguyễn Thùy L và anh Võ Trần Thanh Gi.

2. Về nuôi con chung: Chị Nguyễn Thùy L và anh Võ Trần Thanh Gi không có con chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

3. Về chia tài sản: Chị Nguyễn Thùy L và anh Võ Trần Thanh Gi tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

4. Về án phí:

Chị Nguyễn Thùy L phải chịu 300.000 đông (Ba trăm nghin đông ) án phí ly hôn sơ thâm n hưng đươc trư vao sô tiên tam ưng an phi đ ã nộp là 300.000 đông theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí sô 0008509 ngày 03 tháng 03 năm 2020 tại Cục Thi hành án dân sư thanh phô Hai Phong ; chị Nguyễn Thùy L đã nộp đủ án phí.

Về chi phí tố tụng: Chị Nguyễn Thùy L đã nộp đủ chi phí tố tụng khác.

5. Về quyền kháng cáo của các đương sự:

Chị Nguyễn Thùy L được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 01tháng kể từ ngày nhận được bản án hợp lệ hoặc bản án được niêm yết hợp lệ theo quy định của pháp luật.

Anh Võ Trần Thanh Gi được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hợp lệ hoặc bản án được niêm yết hợp lệ theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

238
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 54/2020/HNGĐ-ST ngày 31/03/2020 về ly hôn

Số hiệu:54/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 31/03/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;